Kinh tế [sửa]
Đông Dương thuộc Pháp đã được chỉ định là một khai thác Colonie d'(thuộc địa của các lợi ích kinh tế) do chính phủ Pháp. Tài trợ cho chính quyền thực dân đến bằng phương tiện của thuế người dân địa phương và chính phủ Pháp đã thành lập một gần như độc quyền về buôn bán thuốc phiện, muối và rượu gạo. Chính quyền Pháp đã thành lập hạn ngạch tiêu thụ cho mỗi làng Việt, do đó dân làng hấp dẫn để mua và tiêu thụ một lượng bộ các mặt hàng độc quyền, bao gồm cả rượu và thuốc phiện. [8] Các thương mại trong ba sản phẩm được hình thành khoảng 44% ngân sách của chính quyền thuộc địa của năm 1920 nhưng từ chối 20% tới năm 1930 như thuộc địa bắt đầu đa dạng hóa kinh tế. ngân hàng chính của thuộc địa là Banque de l'Indochine, được thành lập năm 1875 và đã được chịu trách nhiệm cho đúc tiền của thuộc địa, các đơn vị tiền tệ ai cập Đông Dương. Đông Dương là người thứ hai có vốn đầu tư trong hầu hết các thuộc địa của Pháp bởi 1940 sau khi Algeria, với các khoản đầu tư với tổng giá trị lên đến 6,7 triệu franc. Bắt đầu từ những năm 1930, Pháp bắt đầu khai thác khu vực cho các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng hóa để kinh tế thuộc địa. Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Bộ (bao gồm hiện đại Việt Nam) đã trở thành một nguồn của trà, gạo, cà phê, hạt tiêu, than đá, kẽm và thiếc trong khi Campuchia trở thành một trung tâm cho vụ lúa và hạt tiêu. Chỉ Lào đã được nhìn thấy đầu tiên như là một thuộc địa không khả thi về mặt kinh tế, mặc dù gỗ được khai thác ở quy mô nhỏ từ đó. Bước vào thế kỷ 20, ngành công nghiệp ô tô đang phát triển tại Pháp dẫn đến sự tăng trưởng của ngành công nghiệp cao su ở Đông Dương thuộc Pháp, và rừng trồng được xây dựng trên khắp các thuộc địa, đặc biệt là ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Pháp đã sớm trở thành một nhà sản xuất hàng đầu của cao su thông qua thuộc địa Đông dương và cao su Đông Dương trở nên quý giá ở các nước công nghiệp. Sự thành công của các đồn điền cao su ở Đông Dương thuộc Pháp dẫn đến sự gia tăng đầu tư vào các thuộc địa bằng nhiều hãng như: Michelin. Với số lượng ngày càng tăng của các khoản đầu tư vào các mỏ ở thuộc địa và các đồn điền cao su, chè và cà phê, Đông Dương thuộc Pháp đã bắt đầu thực hiện công nghiệp như nhà máy mở ra ở thuộc địa. Những nhà máy mới dệt may được sản xuất, thuốc lá, bia, xi măng mà sau đó đã được xuất khẩu khắp Đế quốc Pháp. Cơ sở hạ tầng [sửa] Paul Doumer cầu, bây giờ Long Biên Cầu Bảo Tàng Louis Finot tại Hà Nội, được xây dựng bởi Ernest Hébrard vào năm 1932, hiện nay Bảo tàng quốc gia của Việt Lịch sử Khi Đông Dương thuộc Pháp được xem như là một thuộc địa quan trọng về kinh tế cho nước Pháp, chính phủ Pháp đã đặt ra mục tiêu để cải thiện mạng lưới giao thông vận tải và thông tin liên lạc ở các thuộc địa. Sài Gòn trở thành một cảng chính ở Đông Nam Á và đứng sau các cảng của Anh là Singapore là trung tâm thương mại sầm uất nhất của khu vực. Năm 1937 Sài Gòn là cảng thứ sáu bận rộn nhất trong toàn bộ đế quốc Pháp. Năm 1936, tuyến đường sắt Trans-Indochinois nối Hà Nội và Sài Gòn đã mở. Cải thiện hơn nữa cơ sở hạ tầng giao thông vận tải ở thuộc địa đã dẫn đến du lịch dễ dàng hơn giữa Pháp và Đông Dương. Bởi năm 1939, mất chưa đầy một tháng để đi du lịch bằng tàu từ Marseille đến Sài Gòn và quanh năm ngày bằng máy bay từ Paris đến Sài Gòn. Cáp điện báo dưới nước đã được lắp đặt vào năm 1921. cư Pháp thêm hơn nữa ảnh hưởng của họ trên các thuộc địa bằng cách xây dựng các tòa nhà trong các hình thức của Beaux-Arts và thêm địa danh của Pháp chịu ảnh hưởng như Nhà hát lớn Hà Nội và Sài Gòn Nhà thờ Đức Bà. Thực dân Pháp cũng xây dựng được một số thành phố và thị trấn ở Đông Dương mà phục vụ các mục đích khác nhau từ tiền đồn giao dịch để nghỉ mát, thị trấn. Các ví dụ đáng chú ý nhất bao gồm Đà Lạt ở miền nam Việt Nam và Pakse ở Lào.
đang được dịch, vui lòng đợi..
