In many national histories, certain features become distinct signifier dịch - In many national histories, certain features become distinct signifier Việt làm thế nào để nói

In many national histories, certain

In many national histories, certain features become distinct signifiers of cultural authenticity within that country’s traditions. In current academic, political and popular discourses on Vietnam, ‘Woman’ emerges as the embodiment of Vietnamese tradition and as a key signifier of that country’s readiness for modernity. The Vietnam Women’s Union, the key state institution charged with implementing gender equity laws in the Socialist Republic of Vietnam, proclaims that Vietnamese women ‘preserve [Vietnamese] uniqueness and play an important role in the development of identity and cultural genius of its people (giữ gìn…).
As the embodiment of Vietnamese tradition, ‘Woman’ is represented in the scholarly and popular imaginations in three reified forms: a sign of Confucian oppression, of Vietnamese uniqueness or of Southeast Asian cohesiveness. At the heart of these representations is the notion that Vietnamese women’s historical social status signals the country’s readiness for modernity. In this article, I argue that these models of Vietnamese womanhood, born out of French colonial efforts to define Vietnamese authenticity and re-articulated by Vietnamese political actors and scholars to represent national uniqueness, have been central to the formation of the modern Vietnamese nation state. In the twentieth century, French colonial scholars and their Vietnamese counterparts deployed the image of the ‘traditional’ Vietnamese woman as an important measure of the ‘cultural distance’ between Vietnam and the West, a practice that Westerners have long used to mark the stage of modernity for the colonised world. In the postcolonial era, these discourses have lingering effects on the lives of contemporary Vietnamese women, whose economic and political futures are tied to national and international representations of their experiences.
When represented as the embodiment of Confucian oppression, Vietnamese women and their historical social position characterised all that was wrong with local culture – Chinese influence, patriarchal rule and Vietnamese backwardness. In this context, only the establishment of Westernstyle modernity in terms of secular ity, individualism and democracy could free Vietnamese women from the shackles of tradition. French colonial officials charged with implementing the civilising mission, Vietnamese nationalists advocating the adoption of Western institutions and interna- tional development organisations hoping to emancipate Vietnamese women from their traditional roles have collectively produced and perpetuated this model of Vietnamese womanhood
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Ở nhiều quốc gia lịch sử, một số tính năng trở thành khác biệt Tuy của tính xác thực văn hóa trong truyền thống của quốc gia đó. Trong hiện tại Đại học, chính trị và phổ biến discourses Việt Nam, 'Phụ nữ' nổi lên như là hiện thân của Việt Nam truyền thống và là một signifier quan trọng của quốc gia đó sẵn sàng cho hiện đại. Liên minh phụ nữ Việt Nam, cơ sở giáo dục nhà nước quan trọng tội thực hiện giới tính vốn chủ sở hữu luật tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyên bố rằng phụ nữ Việt Nam ' bảo tồn tính độc đáo [tiếng Việt] và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhận dạng và các thiên tài văn hóa của người dân của nó (giữ gìn...).Như là hiện thân của truyền thống Việt Nam, 'Phụ nữ' được đại diện trong trí tưởng tượng học thuật và phổ biến trong các hình thức reified ba: một dấu hiệu của nho giáo áp bức, độc đáo Việt Nam hoặc của đông nam á hoạt. Ở trung tâm của các đại diện là khái niệm rằng địa vị xã hội lịch sử của phụ nữ Việt Nam tín hiệu của đất nước sẵn sàng cho hiện đại. Trong bài này, tôi cho rằng các mô hình của Việt Nam giới phụ nư sinh ra khỏi những nỗ lực thực dân Pháp để xác định tính xác thực Việt Nam và tái khớp nối bởi Việt Nam diễn viên chính trị và học giả đại diện cho quốc gia tính độc đáo nhất, đã được trung tâm của sự hình thành của nhà nước quốc gia Việt Nam hiện đại. Trong thế kỷ XX, học giả thuộc địa Pháp và đối tác Việt Nam của họ bố trí hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam 'truyền thống' như là một biện pháp quan trọng của khoảng cách văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây, một thực tế rằng người phương Tây đã sử dụng để đánh dấu giai đoạn hiện đại nhất thế giới colonised. Trong thời kỳ thành, thị trấn này có những discourses đã kéo dài ảnh hưởng trên cuộc sống của phụ nữ Việt Nam đương đại, tương lai kinh tế và chính trị mà được liên kết với đại diện quốc gia và quốc tế kinh nghiệm của họ. When represented as the embodiment of Confucian oppression, Vietnamese women and their historical social position characterised all that was wrong with local culture – Chinese influence, patriarchal rule and Vietnamese backwardness. In this context, only the establishment of Westernstyle modernity in terms of secular ity, individualism and democracy could free Vietnamese women from the shackles of tradition. French colonial officials charged with implementing the civilising mission, Vietnamese nationalists advocating the adoption of Western institutions and interna- tional development organisations hoping to emancipate Vietnamese women from their traditional roles have collectively produced and perpetuated this model of Vietnamese womanhood
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Trong nhiều lịch sử quốc gia, tính năng nhất định trở thành signifiers biệt của tính xác thực văn hóa trong những truyền thống của quốc gia đó. Trong những bài học, chính trị và phổ biến hiện nay trên Việt Nam, "người đàn bà" nổi lên như là hiện thân của truyền thống Việt Nam và là một signifier trọng của sự sẵn sàng cho sự hiện đại của quốc gia đó. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các tổ chức chính nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyên bố rằng phụ nữ Việt 'bảo toàn [Việt] độc đáo và đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của bản sắc và tài năng văn hóa của người dân (stored . gìn ...)
Là hiện thân của truyền thống Việt, "người đàn bà" được biểu diễn trong trí tưởng tượng của học thuật và phổ biến trong ba hình thức reified: một dấu hiệu của sự áp bức của Nho giáo, tính độc đáo của Việt Nam hoặc của sự cố kết Đông Nam Á. Tại trung tâm của các cơ quan đại diện là quan điểm cho rằng tình trạng xã hội lịch sử phụ nữ Việt của tín hiệu sẵn sàng cho sự hiện đại của đất nước. Trong bài viết này, tôi cho rằng những mô hình nữ tính Việt Nam, sinh ra trong nỗ lực thực dân Pháp để xác định tính xác thực và Việt tái định rõ bởi các diễn viên và các học giả chính trị Việt Nam để đại diện duy nhất của quốc gia, đã là trung tâm của sự hình thành của nhà nước quốc gia hiện đại Việt . Trong thế kỷ XX, học giả thực dân Pháp và đối tác Việt Nam đã triển khai hình ảnh của người phụ nữ Việt "truyền thống" như là một biện pháp quan trọng của 'khoảng cách văn hóa "giữa Việt Nam và phương Tây, một thực tế mà người phương Tây từ lâu đã được sử dụng để đánh dấu các giai đoạn của hiện đại cho thế giới thuộc địa. Trong thời kỳ hậu thuộc địa, những bài giảng có tác dụng kéo dài đến đời sống của phụ nữ Việt Nam hiện đại, có tương lai kinh tế và chính trị gắn liền với đại diện quốc gia và quốc tế về kinh nghiệm của họ.
Khi biểu diễn như là hiện thân của sự áp bức của Nho giáo, phụ nữ Việt Nam và vị trí xã hội lịch sử của họ đặc trưng tất cả những gì là sai trái với văn hóa địa phương - ảnh hưởng của Trung Quốc, quy tắc gia trưởng và lạc hậu Việt. Trong bối cảnh này, chỉ có việc thành lập Westernstyle hiện đại về thế tục ity, chủ nghĩa cá nhân và dân chủ có thể giải phóng phụ nữ Việt khỏi xiềng xích của truyền thống. Các quan chức thực dân Pháp bị buộc tội thực hiện các sứ mệnh khai hóa, dân tộc Việt ủng hộ việc thông qua các tổ chức phương Tây và các tổ chức phát triển quốc tế hy vọng sẽ giải phóng phụ nữ Việt từ vai trò truyền thống của họ đã sản xuất chung và nhồi sọ mô hình này của phái nữ Việt
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: