Đối với Hoa Kỳ, thời đại của một "tăng Trung Quốc" là một thách thức mới. Đối với Việt Nam, đó là Reprise của một chủ đề cũ ngàn năm. Quest của Trung Quốc cho quyền bá chủ trên Biển Đông Trung Quốc đã bị xói mòn tính hợp pháp của chính quyền cộng sản Hà Nội. Thật trùng hợp nó đã tăng tốc một sự thỏa hiệp phong trào hướng về chiến lược giữa Hà Nội và Washington. Các mối quan hệ Mỹ-Việt Nam hiện nay đang phát triển có một không khí của muộn màng không thể tránh khỏi địa chính trị. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi trong khuôn viên của Đảng Cộng sản toàn năng của Việt Nam (ĐCSVN), trong số những phi thành viên (96 phần trăm của 93 triệu người Việt Nam) ý niệm về một liên kết mật thiết với Mỹ là rất phổ biến. Thịnh vượng tại và tương lai của đất nước phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận các thị trường Mỹ và các đồng minh và công nghệ của họ và vốn. Tuy nhiên, bản thân Việt Nam phải tìm ý chí chính trị để cải cách các tổ chức trong nước, hạn chế khả năng của mình để biến truy cập vào sự giàu có. Năm Bốn mươi sau khi kết thúc của nó, là "American War" không còn dấy lên những cảm xúc mạnh mẽ ở Việt Nam. Hầu như không có ngoại lệ, Việt nhấn mạnh rằng họ không chịu mối hận thù, một khái niệm chính thức hẹn hò từ năm 1988 khi Hà Nội đã thông qua các mục tiêu chính sách đối ngoại của việc "thêm bạn bè và ít kẻ thù." Chế độ này không có lựa chọn thực tế sau đó; nỗ lực bài thống nhất đất nước để collectivize nông nghiệp, xây dựng ngành công nghiệp nặng từ đầu và phân bổ hàng hóa theo một kế hoạch trung ương đã thất bại, chỉ là cố vấn Liên Xô của Việt Nam đã dự đoán. Lúc đó khối Xô Viết chính nó đã đổ nát, và cùng với nó là sự trợ giúp huynh đệ mà giữ nền kinh tế của Việt Nam hầu như không nổi khi đối mặt với một lệnh cấm vận thương mại của Mỹ tài trợ. Bên trong, Hà Nội bắt tay vào "đổi mới", hay cải cách kinh tế. Đại hội Đảng đã mở đường của Việt Nam vào nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường, 'cái gì mà đã đến xem xét rất giống chủ nghĩa tư bản. Thật vậy, xung tư sôi nổi để lấp đầy không gian kinh tế mà kém được phục vụ bởi các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp nhà nước đã không được tháo dỡ, và cũng không - mặc dù nông nghiệp bị bỏ tập thể - là quyền sở hữu đất đai thực sự trở lại cho nông dân. Đó là quá trình chuyển đổi kinh tế-xã hội chưa được hoàn thiện đủ để đáp ứng cho một vài thập kỷ. Năm sau khi nền kinh tế của Việt Nam năm đã tăng khoảng bảy phần trăm. Xuất khẩu gạo, cá, cà phê và hạt điều tăng vọt. Các nhà đầu tư từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và cung cấp các bí quyết và vốn để phát triển mạnh các ngành công nghiệp may mặc và giày dép, lắp ráp. Gần như tất cả mọi người là tốt hơn. Mặc dù sự chênh lệch giàu có ngày càng rõ rệt, họ chủ yếu là nhắc nhở mong muốn làm giàu cũng có. Đến năm 2007, năm nay Việt Nam được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nó đã trở thành một trụ cột của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), và thu nhập bình quân đầu người đã lên đến $ 1000, mười lần so với mức năm 1989. Chế độ Hà Nội đã giả mạo hàng chục mối quan hệ nước ngoài xây dựng. Đặc biệt đáng kể đã được đào sâu và mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc. Mặc dù chủ nghĩa thực dụng khiến mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Mỹ, tư tưởng điều đó. Luôn luôn khó chịu gần và van lơn trên sự tôn trọng mà một người em trai mắc nợ một người cao tuổi, Trung Quốc có là một vấn đề trung tâm cho statecraft Việt trong hơn một ngàn năm. Phần lớn thời gian đó, hai quốc gia đã nhận được cùng cũng đủ. Elite liên lạc với Trung Quốc định hình văn hóa Việt. Tiểu đoàn của Hồ Chí Minh không thể mòn quân đội Pháp và Mỹ mà không cần trợ giúp huynh đệ từ Mao của Trung Quốc. Sau này, khi Hà Nội muộn màng chọn theo nghiệp của Bắc Kinh trên "con đường tư bản chủ nghĩa", lãnh đạo của nó được gán ưu tiên cao để tham gia đối tác Trung Quốc tại tất cả các cấp của Đảng và Chính phủ. Tuy nhiên, thường quan hệ với Bắc Kinh đã nóng tính. Một chủ đề định kỳ của lịch sử Việt Nam được đeo đẳng và kháng cuối cùng thành công chống lại quân xâm lược. Như tất cả các học sinh học, thường xuyên nhất những đội quân xâm lược đã được Trung Quốc. Gần đây nhất là năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã tìm cách - và thất bại -. Để "dạy cho Việt Nam một bài học" cho truất chế độ Pol Pot ở Campuchia Sau khi quan hệ ngoại giao đã được khôi phục vào năm 1995, Hoa Kỳ đã trở thành một thị trường béo bở cho hàng hóa Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên, Đảng tiếp tục cảm nhận được một mối đe dọa. Mặc dù đảng cầm quyền đã đổ nhất của chủ nghĩa Mác của nó, nó vẫn còn sâu sắc Lênin trong quyết tâm của mình để giữ một nắm chặt vào đời sống chính trị của Việt Nam. Để các quan chức chịu trách nhiệm về an ninh nội địa tại Việt Nam, Mỹ đã không từ bỏ ý định thù địch. Người Mỹ đã chỉ đơn giản là phát triển tinh tế hơn, cho biết các phương tiện truyền thông bên, tuyên truyền "khái niệm xã hội dân sự" và "chủ mưu các lực lượng diễn biến hòa bình." Chừng nào nền kinh tế của Việt Nam bùng nổ và Trung Quốc credibly có thể đảm bảo với các nước láng giềng rằng sự gia tăng của tình trạng quyền lực lớn sẽ là hòa bình, độ nghiêng của chế độ Hà Nội đến Trung Quốc và sở thích của công chúng đối với các mối quan hệ ấm áp hơn với Hoa Kỳ là một bất đồng quản lý được. Chỉ cần một vài năm sau đó, tuy nhiên, chế độ Hà Nội dò dẫm những suy thoái toàn cầu lớn. Khi thị trường xuất khẩu của quốc gia giảm mạnh trong năm 2008, các nhà lãnh đạo Việt Nam giải quyết thổi bùng nhu cầu trong nước cho đến khi khách hàng nước ngoài trở về. Họ đã làm điều này chủ yếu là bằng cách hướng tín dụng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Đáng chú ý ít nỗ lực đã được thực hiện để giám sát việc sử dụng các công ty 'sự hào của Ngân hàng Nhà nước. Phần lớn thông tin bất ngờ đi vào các đề án phát triển bất động sản không liên quan đến kinh doanh thông thường của doanh nghiệp nhà nước. Hơn đi vào mua hoặc tạo ra các ngân hàng mới sau đó sẽ tạo ra tín dụng và cho vay lại cho các cổ đông của họ. Trong năm 2010, các bong bóng bất động sản bùng nổ. Người vay vỡ nợ lũ lượt, và các ngân hàng của nước này đã bị mắc kẹt với một tỷ lệ lớn các khoản vay không hiệu suất. Bộ điều chỉnh cho rằng các doanh nghiệp lên đến ít hơn bốn phần trăm tài sản của hệ thống ngân hàng; cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc gia nhấn mạnh rằng con số thực tế là gần 15 phần trăm. Hơn nữa, các tập đoàn đóng tàu Vinashin, vào mà Hà Nội đã bơm US $ 4 tỷ USD, quân giải cứu cần thiết. Tiếp rơi vào phá sản là người gửi hàng đại dương nhà nước và điều hành cảng, Vinalines. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chào hàng cả hai công ty như là một mô hình mới cho các doanh nghiệp nhà nước. Năm 2009, trong khi đó, Bắc Kinh hồi sinh một yêu cầu bồi thường với quyền bá chủ của Trung Quốc "từ thời cổ đại" trên vùng biển Nam Trung Quốc. Ngoài khơi bờ biển dài của Việt Nam, tàu Trung Quốc tăng cường sách nhiễu ngư dân Việt Nam và sự can thiệp với thăm dò dầu và khí đốt. Một công internet cho phép lên tiếng Những sự kiện này trùng hợp với một cuộc cách mạng thông tin. Mặc dù từ lâu đã có một vân bất đồng chính kiến ở Việt Nam, nó đã không có một phương tiện để đạt được một lượng lớn khán giả cho đến khi sự bùng nổ của internet. [1] Từ 200.000 người dùng vào năm 2000, thâm nhập Internet tại Việt Nam đã tăng lên đến 40 triệu USD, khoảng 55 phần trăm của Việt Nam trong độ tuổi 14. Là một công dân nhiều hơn và nhiều hơn nữa đăng nhập, họ tìm thấy một canh nồng của các ý kiến khác về các chủ đề mà phương tiện truyền thông được cấp phép của Việt Nam bị cấm để giải quyết. Bây giờ, ngoài tầm với của chế độ kiểm duyệt, blog mà giải quyết các vấn đề nghiêm trọng nào nhận được hàng triệu lượt truy cập mỗi ngày. Tài khoản Facebook, trong đó hơn 30 triệu người truy cập thường xuyên Việt, có đầy đủ nhí chính trị. Lướt Net trong năm 2008 đã học được, ví dụ, rằng chính phủ đã cấp giấy phép cho Công ty Nhôm Trung Quốc tước mỏ bauxite ở vùng cao nguyên Nam Trung bộ của Việt Nam. Tranh luận sớm nhấn mạnh tác động xã hội và môi trường của dự án, nhưng ngay sau đó biến thành cuộc tranh luận công khai chưa từng qua sự giúp đở bị cáo buộc đảng-nhà nước của Trung Quốc tại các chi phí của an ninh quốc gia. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng kinh tế của Việt Nam vào chiều sâu. Năm 2011 chính quyền đã buộc phải thắt chặt tín dụng. Các nhà kinh tế đã kết luận rằng sự năng động giải phóng bởi các chính sách đổi mới đã kiệt sức. Tâm trạng nào là chua và ngoài đảng Việt đã được công khai trút sự bất mãn của họ với nhau. Có lẽ nhân viên cảnh sát đã nghe, nhưng bất đồng chính kiến cảm nhận an toàn về số lượng, và đã có nhiều chuyện để phàn nàn: phá sản của hàng trăm ngàn doanh nghiệp nhỏ và các nhà đầu tư, tham nhũng vặt, sự tàn bạo của cảnh sát, truy cập công bằng để chăm sóc sức khỏe và giáo dục, cán cắt điện và tư thế hòa giải của chính quyền đối với hành động khiêu khích của Trung Quốc ở nước ngoài. Gridlock ĐCSVN đã rõ ràng gặp khó khăn, quá. Rất ít trong số tốt nhất và sáng nữa được việc chọn nghề bên của quốc gia. Những người đã đi vào phục vụ công cộng thường ít quan tâm trong hệ tư tưởng; Mục tiêu chính của họ đã trở nên xúc tiến và lợi nhuận. Theo nhà phân tích Alexander Vuving, nhiều cán bộ cấp cao của Đảng là không bảo thủ cũng không modernizers, nhưng chỉ đơn giản là kẻ cơ hội đã tìm thấy hiện trạng rất thoải mái [2] Vuving giải thích nó theo cách này:. Nghĩa tư bản có nhiều cơ hội để tạo ra lợi nhuận, trong khi chủ nghĩa cộng sản cung cấp một độc quyền quyền lực. Một hỗn hợp của hai tạo điều kiện cho việc sử dụng tiền để mua điện và sử dụng điện năng để kiếm tiền. Có lẽ vì quá nhiều của các nhà lãnh đạo của nó đã được đầu tư trong hiện trạng, ĐCSVN đã từ lâu đã không thể giải quyết vấn đề nhất định. Như đã thấy rồi, một vấn đề như vậy là lập trường của Việt Nam đối với Trung Quốc, một mặt, và các nước phương Tây về việc khác. Một người khác là vai trò của nhà nước trong nền kinh tế - nó phải là một người tham gia, thông qua kiểm soát của nhiều doanh nghiệp lớn, hay cần tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước và tập trung vào việc cung cấp các điều kiện cho phép doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh? Có lần, ngoài ra, tiếp tục cuộc tranh luận trong nội bộ đảng về quản lý thông tin (trong khi, trong thập kỷ qua, khả năng của nhà nước để kiểm soát nó đã trượt đi) và về việc liệu hành động bên nên bị ràng buộc bởi pháp luật và chịu sự xem xét của ban giám khảo độc lập . Tại đại hội đảng vào năm 2001, 2006 và 2011, mặc dù đã có nhiều cuộc tranh cãi về nạn tham nhũng, quản lý yếu kém và nhược ở hợp pháp của Đảng, sự đồng thuận về cải cách quyết định đã vượt quá tầm tay. Mỗi thời gian, vị trí đã được phân phối chủ yếu nhằm duy trì sự cân bằng giữa các phe phái và khu vực. Old cán bộ
đang được dịch, vui lòng đợi..
