Tháng 3 năm 2003, Nhật bản mười chính bảo hiểm công ty tư nhân có tài sản củakhoảng ¥ 152 tỷ đồng, đó là khoảng 30 phần trăm của GDP hoặc 85 phần trăm của ngành công nghiệptài sản. Hầu hết doanh nghiệp bảo hiểm là công ty lẫn nhau để cổ phần của mình không được giao dịch trêntrao đổi, nhưng các mối liên kết tài chính với phần còn lại của hệ thống tài chínhđáng kể. Ví dụ, khoảng 10 phần trăm của vốn chủ sở hữu của mỗi trong bốn lớn nhấtcông ty tổ chức tài chính tại Nhật bản (Tokyo-Mitsubishi, Mizuho, UFJ vàSumitomo-Mitsui) thuộc sở hữu của công ty bảo hiểm nhân thọ. Thời điểm tháng 3 năm 2008, mườicông ty bảo hiểm nhân thọ lớn thuộc sở hữu ¥ 6.3 tỷ đồng ngân hàng cổ phần và phụ thuộcNgân hàng nợ (Fukao, 2003b). Cùng lúc đó, các ngân hàng cung cấp ¥ 1.9 tỷ đồng của18 tạp chí kinh tế Perspectivessurplus ghi chú (tương đương với vốn chủ sở hữu cho các công ty lẫn nhau) và phụ thuộccho vay cho các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn mười. (Những con số này là ¥ 10.5 tỷ đồngvà ¥ 2.0 tỷ đồng, tương ứng, theo tháng 3 2001.)Đòn bẩy tài chính đôi mô tả ở trên phục vụ để làm tăng giả tạo báo cáovị trí vốn của các hãng bảo hiểm và các ngân hàng. Nhật bản điều chỉnh theo cácCác tiêu chuẩn quốc tế trong cấm đòn bẩy tài chính đôi giữa cặp của ngân hàng hoặc cặpcủa hãng bảo hiểm, nhưng đi chệch khỏi các tiêu chuẩn quốc tế trong việc cho phép điều này thực tếgiữa các hãng bảo hiểm và các ngân hàng. Độ lệch này đã bị chỉ trích nặng nề bởi cácCác cộng đồng quốc tế là việc tạo ra các rủi ro hệ thống để hệ thống tài chính (choexample, Bank for International Settlements, 2002, p. 135). The magnitude ofdouble gearing between banks and insurers has been declining recently, but thepractice will presumably continue because the regulators show no sign of changingthe policy
đang được dịch, vui lòng đợi..