Trong thập kỷ gần đây đã từng có một lây lan nhanh chóng và đáng kể của thủy lợi trên toàn thế giới (bảng 4.3). Khu vực đất có tưới tiêu năm 1900 lượng đến ít hơn 50 triệu héc-ta. Bởi 2000 tổng diện tích lên tới five lần figure đó. Trong thập niên 1950 vùng đất có tưới tiêu đã tăng hơn 4% hàng năm, mặc dù figure này bây giờ đã giảm xuống chỉ khoảng 1%. Điều nàylây lan của thủy lợi đã mang về rất nhiều salinization và waterlogging (con số 4.1 và 4.2). Số lượng đất có tưới tiêu salinized khác nhau từ khu vực để khu vực (bảng 4,4), nhưng nói chung có thể dao động từ 10 đến 50% của tổng số. Tuy nhiên, có một loạt đáng kể trong những giá trị theo nguồn gốc của dữ liệu (so sánh bảng 4,5) và điều này có thể một phần reflect sự khác biệt trong definition của thuật ngữ 'salinization' và 'waterlogging' (nhìn thấy Thomas và Middleton, 1993).4.4 bảng Salinization của đất trồng trọt có tưới tiêu. Nguồn: FAQ dữ liệu như được tóm tắt trong thế giới tài nguyên Institute(1988, table 19.3)4.5 bảng toàn cầu ước tính của Trung học salinization ở thế giới tưới vùng đất. Nguồn: Ghassemi et al. (1995, bảng 18). Sao chép bởi sự cho phép của CAB quốc tế và đại học New South Wales Press
đang được dịch, vui lòng đợi..
