Crisis Kết cấu: Từ Boom để Bust
Bất chấp những thành công này, chính phủ Việt Nam đã trở nên lo lắng
bởi những áp lực liên tục để chuyển đổi đất nông nghiệp sang mục đích khác,
mà cuối cùng có thể đe dọa kết quả đầu ra, an ninh lương thực và đầy đủ lương thực quốc gia.
Paddy bảo hiểm đã giảm đáng kể từ 4,5 triệu ha
năm 1978-4.100.000 trong năm 2009; nếu xu hướng này tiếp tục, sẽ có chỉ có
3,5 triệu ha lúa năm 2020 (Tổng cục Thống kê, 2000: 15; Bộ Công Thương, năm 2009) .Khi nhiều
cây trong một năm được đưa vào, khu vực của vụ thu hoạch lúa đã tăng từ
5,5 triệu ha năm 1980 lên đỉnh điểm 7,7 triệu vào năm 1999, sau đó giảm
4 phần trăm đến 7,4 triệu ha vào năm 2008 (IRRI, 2009).
thả này là kết quả của việc chuyển đổi đất lúa cho người khác có giá trị cao hơn
cây lương thực và nuôi trồng thủy sản, cũng như cho mở rộng đô thị, việc tạo ra các
khu công nghiệp và phát triển giải trí như sân golf (Nguyễn
Văn Sửu, 2009: 12; Trần Minh Tôn, 2008). Bên cạnh việc thu hồi đất từ
hiện đại hóa nông nghiệp và biến đổi khí hậu 85
sản xuất lương thực, chuyển đổi như vậy có thể gây ra thiệt hại về môi trường
mà tiếp tục ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả chất thải chưa qua xử lý từ công nghiệp
hoạt động (Trần Đắc Hiền, 2010), và các dòng nước và sử dụng các
hóa chất nông nghiệp cho các bảo dưỡng của cây xanh sân golf (Trần Minh Tôn, 2008).
Xu hướng này đe dọa không chỉ sản xuất tổng hợp của thực phẩm, mà còn
sinh kế và do đó an ninh lương thực của nhiều vùng nông thôn nghèo. Trên khắp
đất nước, hơn 600.000 hộ gia đình đã bị ảnh hưởng bởi đất
chuyển đổi, làm giảm chất lượng cuộc sống cho một nửa của những người (Ngân Tuyền, 2008).
chuyển đổi đất đai đã được thảo luận tại chiều dài của một trong các tác giả khác
(Trần Thị Thu Trang, 2011 ); cho các đối số thực hiện ở đây nó cũng đủ
để chỉ ra rằng quá trình này không chỉ trình bày một mối đe dọa cho sản xuất lương thực,
nhưng cũng phản ánh sự tái xuất hiện của căng thẳng ruộng đất và tăng cường
đấu tranh giai cấp trên đất liền như một kết quả của công cuộc đổi mới. Như chúng ta sẽ thảo luận bên dưới,
này động lực mới là một tính năng quan trọng của chính trị mới nổi của Việt Nam
nền kinh tế, và một trở ngại nghiêm trọng cho việc xây dựng khả năng phục hồi và khả năng thích ứng trong
bối cảnh biến đổi khí hậu.
Bên cạnh chuyển đổi đất đai, chính phủ Việt Nam đã đúng xác định
sự thay đổi khí hậu là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với nông nghiệp và thực phẩm
an toàn. Dễ bị tổn thương đặc biệt của Việt Nam bắt nguồn từ việc tiếp xúc của nó đến cực đoan
của thời tiết, độ nhạy cấp tính của xã hội và nền kinh tế của mình cho những người
cực đoan, và capacity.1 thích nghi hạn chế của nó Các cường độ và tốc độ của
biến đổi khí hậu vẫn còn khó dự báo; họ sẽ phụ thuộc một phần vào sự
không chắc chắn diễn ra những thay đổi sinh lý, và một phần vào nỗ lực giảm nhẹ
mà các xã hội sẽ (hoặc không) đảm nhận. Trong khi một số không chắc chắn và
tranh cãi như vậy vẫn tồn tại (xem Hulme, 2009), các tài liệu khoa học tự nhiên
phản ánh sự nhất trí cao về mức độ nghiêm trọng khả năng của những thay đổi trong
vài thập kỷ tới ở Việt Nam. Với hơn 3.200 km bờ biển, hai chính
khu vực đồng bằng nhỏ hơn và nhiều, mưa gió mùa và bão mạnh, Việt Nam là
đã tiếp xúc với nước biển dâng (SLR), xói mòn bờ biển và sườn đồi, lũ lụt,
ngập lụt, xâm nhập mặn, rét, sóng nhiệt và hạn hán mà chủ thể
hệ sinh thái địa phương để ngày càng căng thẳng nghiêm trọng (Nguyễn Văn Việt, 2011;
. Yu et al, 2010). Ví dụ, một máy ảnh SLR của chỉ 1 mét vào năm 2100 (nay được xem
là lạc quan bởi hầu hết các tài khoản) sẽ nhấn chìm lên đến 31 phần trăm của
đồng bằng sông Cửu Long (Carew-Reid, 2008: 14-15).
dân số của Việt Nam là rất nhạy cảm với điều này dễ bị tổn thương sinh lý,
đặc biệt là thông qua môi trường sống ven biển và ven sông của nó, cơ sở hạ tầng nông thôn và
đời sống. Khoảng ba phần tư dân số của nước này đang sống - và
sống từ - khu vực dễ bị tổn thương, hoặc để SLR và sông ngòi lũ lụt, để sườn đồi
lũ quét, hoặc hạn hán (Ngân hàng Phát triển Châu Á, 2010; Carew-Reid,
2008: 6). Hơn nữa, và mặc dù công nghiệp hóa nhanh chóng, 70 phần trăm của
dân số vẫn còn đăng ký như sống ở khu vực nông thôn (Tổng cục Thống kê, 2009c), trong khi
nông nghiệp tạo ra 21 phần trăm của GDP của Việt Nam (GSO, 2012). Khí hậu
thay đổi sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động nông nghiệp; Việt Nam, giống như nhiệt đới khác
1. Về khái niệm dễ bị tổn thương, xem Füssel (2007) và Nelson et al. . (2007)
86 François Fortier và Trần Thị Thu Trang
khu vực, sẽ phải chịu lỗ ròng đất canh tác, nước và năng suất là kết quả
của bất kỳ sự gia tăng nhiệt độ (Ericksen et al, 2011;. đối với trường hợp của Việt Nam
cụ thể, xem Nguyễn Văn Việt, 2011; Yu et al, 2010).. Nghiên cứu toàn cầu
mà kiểm tra đầu ra của lúa gạo, lúa mì, ngô, kê và lúa miến dự đoán
giảm từ vài phần trăm đến nhiều như 19 phần trăm
(gạo) và 34 phần trăm (lúa mì) năm 2050 đối với các nước đang phát triển. Trong một bối cảnh
ngày càng tăng và nhu cầu đối với các loại ngũ cốc và nhiên liệu sinh học cạnh tranh, điều này có thể đẩy
tăng giá lương thực bởi bất cứ điều gì từ 10 đến 100 phần trăm (Nelson et al, 2009:.
5-7).
đang được dịch, vui lòng đợi..
![](//viimg.ilovetranslation.com/pic/loading_3.gif?v=b9814dd30c1d7c59_8619)