Ở Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc phát triển các chỉ số kinh tế của nghề đánh cá xa bờ ở tỉnh Khánh Hòa cũng như tìm ra các yếu tố chính ảnh hưởng đến hiệu suất tàu hiện bằng doanh thu gộp và (hoặc) thu nhập (Kim Anh et al. (2006), Kim Anh et al. (2007), Thanh Thuy et al. (2008) và Long et al. (2008)). Một số dự án nghiên cứu tập trung vào phân tích hiệu quả cho ngành thủy sản (Ngọc et al. (2009), Truong et al. (2011)). Các tác giả đã đóng góp kiến thức hữu ích cho các nhà quản lý nghề cá để cải thiện và phát triển ngành thủy sản ở Việt Nam. Đối với Kim Anh et al. (2006), các tác giả đã tiến hành nghiên cứu về chi phí và thu nhập của các tàu lưới rê ở Nha Trang, Việt Nam trong năm 2004 và năm 2005. Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng cá ngừ-cá thu lưới rê thủy sản là một trong những nghề cá xa bờ có hiệu quả kinh tế khá cao. Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm 2004 và 2005 lần lượt là 10,9% và 17,9%. Những lý do chính cho điều đó là tất cả có lẽ là phong phú trong kho cá và gia tăng trong nhu cầu thị trường cho cá ngừ và cá thu.
Cả hai nghiên cứu của Long et al. (2008) và Thanh Thủy et al. (2008) đã có những đặc điểm giống nhau về phương pháp kể từ khi chỉ số hoạt động kinh tế được dựa trên tổng doanh thu, tổng giá trị gia tăng, dòng tiền gộp, lợi nhuận thuần và tỷ suất lợi nhuận. Khi tính toán lợi nhuận ròng, cả những nghiên cứu này không bao gồm chi phí cơ hội của vốn. Các kết quả của Long et al. (2008) cho thấy các phi hành đoàn tiền công trung bình hàng năm là 93% thu nhập của lao động trong các ngành sản xuất nhất ở Khánh Hòa và các chủ sở hữu của một diễn câu vàng trung bình có tỷ suất lợi nhuận là 12,1%. Ngoài ra, phân tích hồi quy của doanh thu và thu nhập cho thấy, nếu các yếu tố khác giữ không đổi, một tàu của thân tàu dài 15,9 và 15.1m sẽ tối đa hóa doanh thu và thu nhập tương ứng. Điều này ngụ ý rằng đầu tư quá mức trong các mạch có thể dẫn đến sự kém hiệu quả trong longliners của Khánh Hòa. Đối với Thanh Thuy et al. (2008), các tác giả đã tiến hành nghiên cứu về chi phí và lợi nhuận của các tàu lưới vây quy mô nhỏ tại các cộng đồng đánh cá (Nha Trang và Cam Ranh) trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong năm 2005. Kết quả đã chứng minh rằng một ví nhỏ quy mô trung bình là người đánh cá bằng lưới kéo có thể bao gồm tất cả các chi phí của nó bao gồm cả khấu hao và trả lãi, và kiếm được một tỷ suất lợi nhuận là 24% và lợi nhuận trên vốn đầu tư 30%. Thu nhập của các thành viên phi hành đoàn đã cao hơn so với các công ty chế biến thủy sản địa phương trong tỉnh.
Ngọc, et al. (2009) sử dụng SPF để đánh giá hiệu quả của các tàu thuyền đánh cá mà bị ảnh hưởng bởi một khu vực bảo tồn biển tại vịnh Nha Trang, Việt Nam. Nghiên cứu cho thấy hiệu quả varried với các ngư trường. Các tàu đánh bắt cá trong vùng lân cận của Nha Trang Bay Marine Bảo vệ khu vực (NTB-MPA) là mức độ cao hơn hiệu quả hơn so với những người trong một khu vực được bảo vệ. Ngoài ra, các tác giả cũng kết luận rằng một MBA dường như không đủ để đạt được cải thiện quản lý. Nó là rất quan trọng để đối phó với các mối liên hệ giữa nghèo đói và quản lý tài nguyên để đảm bảo sự thành công của một MBA.
đang được dịch, vui lòng đợi..
