BẢO HỆ THỐNG KHU tại VIỆT NAM (Phần II)
Cơ cấu quản lý tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tất cả đất đai thuộc sở hữu của người dân và do Nhà nước quản lý. Hiện nay, Chính phủ đang thực hiện việc giao quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài (gọi là sổ đỏ hoặc màu xanh lá cây). Các chứng chỉ được cấp cho các vùng đất nông nghiệp lên đến 20 năm và đất rừng cho đến 50 năm. Quá trình phân bổ sử dụng đất, đặc biệt đối với đất rừng, đã được tiến hành từ từ.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (1991) sub-chia đất rừng thành các loại quản lý ba rừng: sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Hầu hết đất đai thuộc loại rừng sản xuất được quản lý bởi nhà nước-lâm nghiệp. Năm 1997, chính phủ bị đình chỉ hoạt động khai thác gỗ trong hầu hết các nhà lâm nghiệp và chuyển trọng tâm từ sản xuất đến rừng phòng hộ.
Bảo vệ và rừng đặc dụng được quản lý bởi Hội đồng quản trị. Trong hầu hết các trường hợp, các bảng được điều hành bởi các quan chức, bởi các bộ phận lâm nghiệp của tỉnh có liên quan (thường Cục Kiểm lâm) được giao. Cơ cấu Ban quản lý hiện hành không bao gồm các đại diện từ các thành phần hoặc các bên liên quan khác. Ban quản lý đã được thiết lập cho khoảng một nửa của khu rừng đặc dụng và một tỷ lệ nhỏ hơn của rừng phòng hộ. Ngoại trừ một vài công viên quốc gia, Ban quản lý không có đủ nhân viên hoặc các nguồn tài nguyên.
Mỗi tỉnh chuẩn bị các kế hoạch sử dụng đất bao gồm ba loại đất rừng (sản xuất, phòng hộ và đặc dụng). Bởi vì không có quá trình quy hoạch tổng hợp cho các khu bảo tồn, kế hoạch sử dụng đất có thể đề xuất phát triển trong phạm vi ranh giới của khu rừng đặc dụng; đây là một trong hai thiếu sự phối hợp hoặc mâu thuẫn với mục tiêu quản lý bảo tồn các khu vực được bảo vệ. Quản lý tài nguyên thiên nhiên cho môi trường biển là 2 Hải Hòa Nguyễn / Tiếng Anh Quản lý tài nguyên thiên nhiên / W8_ANC5_2016_PA_ Reading 1_Part II thuộc Bộ Thuỷ sản. Bộ này cũng giám sát thủy sản nước ngọt và nuôi trồng thủy sản.
đang được dịch, vui lòng đợi..
