(1) Làm việc với trẻ em Việt Nam liên quan đến việc nhìn thấy chúng trong bối cảnh gia đình và cộng đồng. Con cái của những người tị nạn Việt không sống cá nhân như bị cô lập. Họ sống trong gia đình và trong cộng đồng mà đã có kinh nghiệm các chủng lưu vong và tái định cư. Một số trẻ em phải sống với sự mất mát của các thành viên trong gia đình có chiến tranh hay trong chuyến bay. Những người khác đã được tách ra từ các thành viên gia đình trong một thời gian dài của thời gian, và họ có thể có khó khăn trong việc tái lập quan hệ khi các thành viên gia đình họ đoàn tụ. Ngay cả khi mối quan hệ gia đình là âm thanh, nhiều trẻ em tìm thấy cha mẹ và những người lớn khác của gia đình mở rộng của họ đấu tranh để thiết lập vị trí của họ trong các quốc gia mới. Tất cả những vấn đề này tuy nhiên, gia đình Việt Nam có xu hướng định hướng tới hội nhập vào xã hội Mỹ. Họ không hoạt động trong sự cô lập; họ đã tái thiết lập các cộng đồng và các mối quan hệ xã hội nhằm hỗ trợ nhau trong việc đáp ứng những thách thức của đất nước mới. Trong khi cộng đồng dân tộc đã được chứng minh là phương pháp hiệu quả đối phó với nhiều vấn đề, họ cũng tạo ra môi trường xã hội mà có thể khá khác với hầu hết trẻ em Mỹ. Những nỗ lực để hỗ trợ các trẻ em dân tộc mới này trong trường hoặc trong các tổ chức khác do đó nhất thiết phải liên quan đến việc trở thành quen thuộc với cuộc sống của trẻ em trong các gia đình và môi trường xã hội trước mắt của họ.
(2) Những người làm việc với trẻ em Việt Nam cũng cần phải làm việc với người lớn tuổi. Nó thường là khó khăn cho cá nhân không Việt để làm quen với gia đình và cộng đồng Việt. Trong khi người ngoài hầu như luôn đối xử lịch sự, quan hệ chặt chẽ có thể được khó khăn để thiết lập. Tuy nhiên, kể từ khi trẻ em Việt Nam vẫn đang sống trong hoàn cảnh gia đình và cộng đồng, nhiều vấn đề của họ liên quan đến mối quan hệ với gia đình và cộng đồng. Cha mẹ và những người lớn tuổi khác có thể miễn cưỡng nhập như môi trường xung quanh người nước ngoài như trường học ở Mỹ, nhưng mọi nỗ lực cần được thực hiện để làm cho họ cảm thấy được chào đón tại các tổ chức phục vụ trẻ em của họ.
(3) trẻ em Việt Nam thường chịu áp lực lớn từ gia đình và cộng đồng của họ và có thể cần sự hỗ trợ về mặt văn hóa trong việc đối phó với nó. Giáo dục và công chúng Mỹ thường cảm thấy rằng kết quả học tập tương đối mạnh mẽ của trẻ em Việt Nam chỉ ra rằng họ đang làm tốt và có ít nhu cầu. Làm tốt và là cũng là hai việc khác nhau, mặc dù. Ngay cả khi các em được xuất sắc, họ thường đáp ứng nhu cầu của phụ huynh về việc tìm kiếm một nơi tôn trọng tại quê hương mới. Điều này có thể dẫn đến căng thẳng tâm lý đáng kể và bất hạnh. Nhóm hỗ trợ đồng đẳng, tổ chức trong nhà trường, có thể có những cách có giá trị tạo điều kiện cho trẻ em để chia sẻ áp lực của họ với nhau.
(4) con Thậm chí dường như cũng được điều chỉnh thường cảm thấy áp lực và lo âu của cuộc xung đột song văn hóa. Khoảng cách thế hệ là phổ biến trong hầu như tất cả các nhóm dân tộc Mỹ. Tuy nhiên, họ có thể được đặc biệt là vấn đề trong nhóm này. Không chỉ là trẻ em dưới áp lực từ cha mẹ nhập cư của họ, họ cũng có kinh nghiệm sống khá khác nhau từ cha mẹ họ. Làm trung gian cho các cuộc xung đột giữa cha mẹ và trẻ em, và giúp đỡ cha mẹ và trẻ em để xem những thứ từ quan điểm của nhau, có thể là một nhiệm vụ quan trọng trong việc tạo ra sự cộng hưởng thế hệ và giúp đỡ trẻ em đáp ứng những thách thức của cuộc sống trong phân khúc của mình trong xã hội Mỹ hiện đại.
(5) Cách hiệu quả nhất trong việc quản lý các vấn đề song văn hóa nằm trong sự phát triển của quan hệ song văn hóa và kỹ năng. Trẻ người Mỹ gốc Việt phải có khả năng đáp ứng những thách thức của xã hội Mỹ. Nắm vững và thành ngữ thông thạo tiếng Anh, bước vào môi trường học, và chuẩn bị cho các nơi làm việc chính của Mỹ được và để phát triển các kỹ năng cần thiết trong khi vẫn giữ mối quan hệ dân tộc là để tham gia vào các hoạt động và thiết lập mà là cả tiếng Việt và người Mỹ gốc Việt. Khi người trẻ chuẩn bị triển lãm văn hóa cho những người khác trong nhà trường hoặc
đang được dịch, vui lòng đợi..
