Kế tiếp khủng hoảng kinh tế ở Châu á và châu Mỹ Latinh có dented lực lượng tân tự do quan điểm về đầu tư nước ngoài. Tư nhân hoá và các biện pháp tự do hoá khác đã được thực hiện trong giai đoạn này đã được đảo ngược trong nhiều states.35 ở châu Mỹ Latin, đã có một sự thay đổi leftward đó đảo ngược nhiều người trong số những thay đổi được thực hiện earlier.36 này xu hướng đảo ngược chính sách tự do đầu tư có thể được nhân rộng trong nước phát triển cũng như khi những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 bắt đầu phải giữ. Hành chính quyền kiểm soát mục nhập đầu tư có thể là một tính năng mà trở nên phổ biến cho cả hai phát triển và các nước đang phát triển.Trong thời hiện đại, đó là một quyết định lớn hơn quyền trong các cơ quan hành chính, sàng lọc đầu tư vào cho phép các mục nhập cho đầu tư xem xét mong muốn về các điều khoản thuận lợi hơn. Không có nhà nước đã cậu cho đầu tư nước ngoài trong phạm vi của loại bỏ tất cả các điều khiển trên flow của đầu tư nước ngoài vào tình trạng máy chủ. Tuy vậy, đã có cuộc cạnh tranh nặng cho đầu tư vào những năm 1990, kết quả là một cuộc cạnh tranh để đảm bảo rằng điều khiển đã được nới lỏng và ưu đãi lớn hơn đã được trao cho đầu tư nước ngoài. Ngay cả trong giai đoạn này, khi điều kiện được thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, có là không có nỗ lực để loại bỏ các điều khiển trên dòng đầu tư nước ngoài hoàn toàn. Nó có thể cũng được pháp luật sẽ là hơn một cach nghiêm tuc thi hành để đáp ứng với cuộc khủng hoảng kinh tế. Một trường hợp-by-trường hợp, phương pháp tiếp cận quy định để đầu tư nước ngoài sẽ có ý nghĩa tươi cho bảo vệ đầu tư nước ngoài vào một nhà nước theo một chế độ quản trị. Đầu tư nước ngoài đến được thực hiện không chỉ trên cơ sở hợp đồng đầu tư như trong quá khứ, nhưng cũng có trên cơ sở giấy phép được cấp bởi cơ quan quy định. Quá trình nhập cảnh không còn là một biện pháp luật tư một mình và giả định luật công tính năng. Những người có địa chỉ vấn đề trong điều khoản của luật pháp quốc tế đã bận tâm với những khía cạnh hợp đồng của tình hình. Sự ra đời của luật công tính năng vào quá trình đầu tư nước ngoài nhập cảnh có những hậu quả đó là chưa là analysed.37 đáp ứng cho sự phát triển mới này đã một số hình thức. Hiệp ước đầu tư phản ứng với nó bằng cách bao gồm giấy phép trong vòng của definition đầu tư nước ngoài, cho nó đến để nhận ra rằng merewithdrawal of the licence would nullify the objectives of the foreign investment leaving the property and ownership of it intact. Hence, it was necessary to redefine the taking of property to include the cancellation of a licence. Also, there was a need to introduce into the international law of foreign investment the same concepts that protected administrative licences in domestic law. This is seen in the requirement that due process should be provided before there is a withdrawal of a licence. This requirement began to appear in the provisions on expropriation in investment treaties as well as in case law on the subject.38 It is important to understand the nature of the public law controls that have been instituted. The change that has been brought about as a result of the institution of these administrative measures will affect the claims and arguments that have been made about the rules of the law of foreign investment in the past. The foreign investor who enters the host state is estopped from arguing that he entered only on the basis of the investment contract as he would consciously have followed the legal requirements prescribed by the regulations and accepted the con- ditions that his investment had been subjected to. In these circumstances, where there has been an administrative interference by the state on the basis that the foreign investor had not complied with the conditions of entry, it would be futile to look upon the situation as a mere breach of the agreement on the basis of which entry was made. Equally, the state cannot capriciously interfere with the investment by cancelling a licence that it had awarded without providing adequate reasons for such a course and without giving an opportunity to the foreign investor to explain why those reasons should not apply. From the point of view of investment protection, the creation of machinery to review the adequacy of these reasons through external arbitral tribunals has been the most effective counter to these developments involving the use of discretionary administrative power over foreign investment.
đang được dịch, vui lòng đợi..