2. Khái quát tình chuyển sở hữu chéo trong hay thống ngân hàng Việt NamĐối với thực Trắngby Việt Nam, từ nhiều năm trước khi việc thành lập hay thống ngân hàng cổ phần được thực thi, Chính phủ đã hào trương phải có đại diện của mình trong mỗi ngân hàng và cácngân hàng quốc doanh lớn đã được lựa chọn tiếng góp vốn với tư cách cổ đông nhà nước. Sự hiện diện của những ngân hàng quốc doanh nhằm mục đích hạn chế những hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý nếu có cũng như những yếu kém ban đầu từ phía các ngân hàng cổ phần mới được thành lập. Trong bối cảnh bấy giờ, sự thận trọng này là cần thiết. Ngoài ra, xét từ góc độ nghiệp vụ, các ngân hàng quốc doanh lớn đã chia trình kinh nghiệm kinh doanh, quản trị thậm chí chia trình đoàn nguồn nhân lực với tất đoàn các ngân hàng họ góp vốn. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của hay thống ngân hàng Việt Nam, ảnh hưởng của các chuyển ngữ sở hữu chéo cũng có nhiều biến đổi. Trong các nhóm sở hữu chéo đã nêu ở trên do do ban Kinh tế Quốc hội phân loại, 3 nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì hào yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam và quốctế, góp phần nâng cao năng lực quản trị vốn hiệu tên của các TCTD. Trong khi đó, 3 nhóm còn lại có Bulgaria tiềm ẩn những nguy cơ xấu cho tính ổn định của hay thống ngân hàng.Nhìn chung, thực trạng sở hữu chéo trong hay thống ngân hàng Việt Nam như tỷ lệ nắm giữgiữa các tổ chức, vai trò của các cổ đông và công NXB phẫn sát vai trò này là những vấn đề hết sức phức tạp bởi quan hay chồng chéo mang tính lịch sử, đồng thời cũng mang tính biến động cao , kết hợp với nguồn thông tin hạn chế. Trước hết, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tổ đoàn kinh tế Nhànước và các tổ đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư 戴思杰 hạn với vai trò nhà dự lập, nhà đầu tư chiến lược trong các NHTM. Theo báo cáo của do ban Kinh tế Quốchội, hiện tại có khoảng gần 40 các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sở hữu trên 5% tại cácNHTMCP.Đối với chuyển ngữ sở hữu chéo giữa các ngân hàng với nội, Vietcombank hiện là TCTD sở hữunhiều nhất cổ phần của những ngân hàng ông. Sau khi thoái vốn khỏi NHTMCP Gia định (tên mới là Bản Việt), Vietcombank đang còn là cổ đông của SaigonBank, Eximbank, Quân huấn, Phương Đông và Oceanbank với các tỷ lệ nắm giữ ông nội. Theo thống kê, có khoảng 8 NHTMCP có quan hay cổ phần với 4 NHTMNN. Quận hay sở hữu này chuyển thành hào yếu từ những hạn chế nghiệp vụ ngân hàng của các NHTMCP trong giai đoạn đầu thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng năm 1997-1998. Ngoài ra, hiện tượng sở hữu lẫn nội giữa các NHTMCP cũng có xu hướng tăng lên trong thời gian qua.Bên cạnh đó, hay thống ngân hàng còn tồn tại những quán hay ràng buộc phức tạp về mặt sở hữu khi mà các ngân hàng có những công ty con, công ty liên kết và những công ty này cũng nắm giữcổ phiếu ngân hàng. Đơn cử, tính đến ngày 17/5/2012, CTCK Sài Gòn-Hà Nội (SHS) sở hữu 3,74% vốntại NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB), đồng thời, SHB sở hữu 8,22% vốn tại SHS. Với những biến đổingày càng phức tạp như vậy, sở hữu chéo giữa các ngân hàng thuộc các nhóm 4, 5 và 6 nêu trênđang chức ra những hay lụy NXB động rục truyện đến tính ổn định và lành mạnh của hay thống.Thứ nhất, nguồn lực và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng không được đánh giá đúng mức. Sở hữu chéo đã cho phép nhiều ngân hàng với quy mô vốn điều lệ nhỏ lách được quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP về mức vốn pháp định của các TCTD, theo đó vốn điều lệ thựcgóp của các ngân hàng phải đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Thôngqua sở hữu chéo, cổ đông của ngân hàng A có thể vay tiền ngân hàng B thông qua một công ty đầu tư tài chính của mình để góp vốn vào ngân hàng A và ngược lại hoặc là ngân hàng A đầu tư vào ngân hàng B, ngân hàng B đầu tư vào ngân hàng C và ngân hàng C lại quay lại đầu tư vào ngân hàng A.Chính điều này đã tạo ra luồng vốn tưởng là góp thật vào hệ thống nhưng thực chất lại là vốn vay lẫn nhau giữa các ngân hàng. Trong 4 năm qua, hàng loạt các NHTMCP đã nâng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng. Nhưng trên thực tế, quy mô của dòng vốn mới thực sự được bổ sung vào hệ thống ngân hàng vẫn chưa được làm rõ. Với quy mô vốn điều lệ tăng, các ngân hàng được phép huy động thêm tiền gửitrong dân cư và hàng nghìn tỷ đồng vốn huy động mới này lại có thể được dùng để tài trợ cho nhữngdự án sân sau của chính các cổ đông lớn của ngân hàng. Ngoài ra, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánhgiá rủi ro của hệ thống ngân hàng vì rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn tự có như hệ số an toàn (CAR),hay tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản, trong khi đó vốn tự có của các ngân hàng không thực chất là có quymô như vậy mà bao gồm cả nguồn vốn ảo do sở hữu chéo. Trong những năm gần đây, tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng liên tục nóng khiến hệ số đòn bẩy tài chính tăng lên và hệ số an toàn vốn CAR giảm, đồng thời tấm đệm để phòng ngừa rủi ro là vốn tự có lại mỏng và bị gây nhiễu bởisở hữu chéo, tất cả những điều đó càng làm trầm trọng hơn những khó khăn của hệ thống.Các chỉ số không chính xác lại dẫn đến sai lệch cả về quản trị ngân hàng cũng như việc giám sát đối với hệ thống tài chính. Điều này là đặc biệt nguy hiểm vì những rủi ro trong lĩnh vựcngân hàng tài chính khi bùng phát thì có sức lan tỏa rất rộng và hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế.Thứ hai, sở hữu chéo có Bulgaria làm gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát. Đối vớicác doanh nghiệp (hay ngân hàng) là cổ đông lớn của ngân hàng, sở hữu chéo cho phép một doanh nghiệp (hay ngân hàng) có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM có Bulgaria gây áp lực (mộtcách hợp pháp như qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị với vị thế cổ đông chiến lược) tiếng ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp hay ngânhàng của mình. Hay đảm các ông, khi một TCTD lớn chiếm cổ phần chi phối ngân hàng khácvà biến ngân hàng này thành "sân sau" của mình, họ có Bulgaria buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín Scholars cho những dự án rủi ro hoặc cho doanh nghiệp có quan hay thân thiết. Mặc dù theoquy định thì các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn, nhưng các ngân hàng có Bulgaria lách quy định này bằng cách cho các công ty con của các doanh nghiệp vay vốn. Mặt ông, không loại trừ trường hợp lãnh đạo của ngân hàng chi phối lạm Scholars lại lựcbuộc ngân hàng mà mình có Bulgaria chi phối cấp tín Scholars tiếng tên vụ lợi học cá nhân.Thứ ba, các quy định về giới hạn tín Scholars, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủiro của NHNN có Bulgaria bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi khách hàng doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích dựphòng của rủi ro theo quy định, ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng một có sở hữu) cho vay tiếng đảo nợ. Đây cũng là một trong những lý do khiến NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hay thống ngân hàng.
đang được dịch, vui lòng đợi..
