Sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu bắt đầu với việc thông qua doi moi ("cải tạo") vào năm 1986, một quá trình tăng cường từ năm 1989 trở đi. Cho đến thời điểm đó, Việt Nam đã hoạt động như một nền kinh tế kế hoạch tập trung với các đầu vào quan trọng của viện trợ từ Liên Xô. Thương mại quốc tế được quản lý thông qua các thỏa thuận với các chính phủ nước ngoài, và mức độ tổng thể của thương mại đã được low.4 Trong những năm 1980, chỉ có khoảng 10% sản lượng trong nước được xuất khẩu và tăng trưởng xuất khẩu là chỉ có 3,5% mỗi năm từ năm 1977 và 1988 (World Ngân hàng,
1990, p. 59). Xuất khẩu đã giúp mặt hàng thiết yếu. Khoảng một nửa trong tổng thương mại là với các nước COMECON
(Ngân hàng Thế giới, 1990, p.61). Hơn nữa, trước khi sự ra đời
của công cuộc đổi mới, Việt Nam đã được đóng cửa để các nhà đầu tư nước ngoài. Sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin và sự tan rã của Liên Xô, Việt Nam đã trở thành nhiều hơn tích hợp với nền kinh tế toàn cầu. Cũng đã có một sự định hướng của thương mại, với các nền kinh tế Đông Á trở thành đối tác thương mại lớn của đất nước trong những năm 1990. Các nước OECD (bao gồm cả Nhật Bản và Hàn Quốc) cũng đã trở thành thị trường ngày càng quan trọng đối với hàng xuất khẩu Việt Nam trong những năm 1990, và vào cuối thập kỷ này, chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước so với ít hơn một phần tư trong năm 1990 (Viện Kinh tế, 2001, p. 29). Như có thể thấy từ con số 1, mở cửa thương mại của nền kinh tế đã tăng mạnh vào cuối năm 1980 và sau đó tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng trong suốt những năm 1990. Đến đầu của thiên niên kỷ, thương mại (xuất khẩu và nhập khẩu) như là một phần của GDP là hơn ba lần so với mức mà trong thời gian cuối năm 1980. Sự tăng trưởng của FDI là bằng nhau hoặc thậm chí ngoạn mục hơn. Cổ phiếu của FDI như là một tỷ lệ của GDP đã tăng từ con số không trong giữa những năm 1980 đến hơn 75% vào năm 2001
đang được dịch, vui lòng đợi..
