Net Present Value (NPV) của nghề nuôi tôm truyền thống và khoa học bao gồm OCS và CPA:
Nới lỏng các giả định rằng những người nuôi tôm không gây ra bất kỳ thiệt hại cho nông dân trồng lúa lân cận
thông qua nước thấm mặn, đã không quay lại hoạt động mang lại lợi nhuận nuôi tôm khoa học trong dài
chạy xem xét tất cả các hộ nuôi tôm với nhau. Nhưng, đối với người nuôi tôm khoa học biên sau
tình hình 1, NPV hơn chi phí đã thanh toán ra hóa ra là tiêu cực sau khi bao gồm các chi phí bồi thường cho
nông dân trồng lúa liền kề. Điều này chỉ ra rằng nếu người nuôi tôm sau nuôi tôm khoa học
hệ thống, sản xuất tôm liên tục trong những năm đầu, họ sẽ kết thúc trong tình trạng thua lỗ. Nhưng,
nếu người nông dân nuôi tôm khoa học cận biên theo các thực hành theo quy định bằng cách cho ngày lễ mùa vụ, họ vẫn có thể
giữ lại một khoản lợi nhuận tích cực trong thời gian dài, thậm chí sau khi tính toán chi phí cơ hội về lúa
mất đi thu nhập và chi phí thiệt hại do mình tạo ra để lúa liền kề nông dân.
đáng chú ý là ngay cả sau khi chiếm chi phí compe nsation cho lúa liền kề
nông dân, nuôi tôm truyền thống vẫn có lợi nhuận cho tất cả các loại của người nuôi tôm bao gồm cả
nông dân nuôi tôm biên khi chỉ trả hơn chi phí đã thanh toán ra là xem xét. Nhưng, trong không giống như thời gian trước mắt
tình huống mà việc nuôi tôm khoa học báo cáo lợi nhuận cao hơn gấp bốn lần so với truyền thống
nuôi tôm, trong dài lợi nhuận của nuôi tôm khoa học chỉ là 1,7 lần so với
nuôi tôm truyền thống. Bảng 3 cho thấy một nhận xét thú vị. Mặc dù tôm khoa học
nông nghiệp tham gia tất cả các hộ nuôi tôm với nhau và sau khi thực hành theo quy định của cây trồng thay thế
luân phiên đăng ký lợi nhuận cao hơn so với nuôi tôm truyền thống, người nuôi tôm người văn hóa
tôm trên mảnh nhỏ của đất bằng phương pháp khoa học là tồi tệ hơn-off so với họ các đối tác trong
. nuôi tôm truyền thống
lợi Chỉ số -Cost (BCR) của hệ thống canh tác tôm thay thế: Bảng 3 cũng miêu tả BenefitCost
Chỉ số tài chính (BCR) ở mức 10% tỷ lệ chiết khấu cho các hệ thống canh tác tôm thay thế. Các ước tính về BCR
lấy tất cả những người nuôi tôm khoa học với nhau (dưới tình hình 1), trừ OCS và CPA, bao gồm OCS
và bao gồm cả OCS và CPA là 1,25, 1,22 và 1,18 tương ứng. Thiết lập tương tự như dự án BCR nằm trong khoảng
1,29-1,21 cho tình hình 2 trong nuôi tôm khoa học. Những con số BCR đề nghị rõ ràng rằng ngay cả khi
tình hình 1 là khả thi về mặt kinh tế, nhưng có một BCR ít hơn so với tình hình 2, cho thấy khả năng sinh lời cao hơn
của tình hình 2. BCRs nuôi tôm khoa học là thấp hơn so với nuôi tôm truyền thống
mà là 2.1 khi OCS và CPA bị loại trừ và 1.3 khi cả OCS và CPA được bao gồm. Điều này ngụ ý một
đầu tư đưa ra trong nuôi tôm truyền thống tạo ra một lợi ích tương đối cao hơn so với các khoa học
nuôi tôm.
Phân tích độ nhạy:
Các phân tích độ nhạy cảm sẽ phản ánh lợi nhuận của nuôi tôm dưới nguy cơ sụt giảm trong
giá tôm và gia tăng chi phí sản xuất tôm. Bảng 4 trình bày các kết quả của độ nhạy
phân tích. Bảng tiết lộ rằng sau khi giả định giảm lợi ích của 15 phần trăm VI và sự gia tăng
chi phí bằng 15 phần trăm, các hệ thống canh tác khoa học sẽ không được lợi nhuận nếu nuôi tôm nông dân
đang được dịch, vui lòng đợi..
