Tương tự, Barbue (2004) đã tiến hành một nghiên cứu theo chiều dọc trong khoảng thời gian khác nhau, from1985 đến năm 1999 để đo người Pháp công ty các xu hướng để thực hiện các chuẩn mực quốc tế. Ông đã thiết lập sự tồn tại của một lang thang kế toán develoPED trong số 100 được nhận xét kinh doanh Pháp nhóm chủ đề của nghiên cứu.Trong lượt, Affes và Callimaci (2007) đã nêu bật các động cơ dẫn đến một nhận con nuôi đầu của IAS/IFRS của Đức và áo liệt kê nhóm. Hồi quy logistic đã tiến hành trên một mẫu 106 công ty Đức và áo cho thấy rằng các xác suất của sớm áp dụng IAS/IFRS làm tăng với sự tôn trọng công ty kích thước. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa nợ và các dự đoán việc áp dụng IAS/IFRS dường như có nhỏ tầm quan trọng rất mang ơn công ty là chủ nợ của họ có thể yêu cầu tuân thủ công ước nợ dựa trên tính toán cụ thể. Bên cạnh đó, trong một mẫu gồm 28 công ty được liệt kê trên các cổ phiếu Thụy sĩ thị trường và áp dụng tiêu chuẩn địa phương cùng với 51 công ty áp dụng IAS/IFRS, Dumontier và Raffournier (1998) có chứng minh sự vắng mặt của một mối quan hệ quan trọng giữa các tự nguyện áp dụng IAS, tỷ lệ nợ và hiệu suất công ty.Gần đây, Tuy nhiên, câu hỏi nghiên cứu việc nhận con nuôi yếu tố quyết định của IAS/IFRS đã được khám phá trong bối cảnh nước đang phát triển. Trên thực tế, các DCs tiếp tục trải nghiệm tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và có một trọng lượng trong quốc tế nền kinh tế, nhân là họ tuân thủ một số cho IAS /IFRS. Kết quả là, một số công trình nghiên cứu đã cố gắng để xác định cho dù có những đặc thù liên quan đến DC liên quan đến các quyết định áp dụng tiêu chuẩn quốc tế
đang được dịch, vui lòng đợi..
