Dân số: 14.928 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng c dịch - Dân số: 14.928 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng c Việt làm thế nào để nói

Dân số: 14.928 người (theo kết quả

Dân số: 14.928 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang.

Hoạt động sản xuất: Người Lào làm ruộng nước với kỹ thuật dẫn thuỷ nhập điền hợp lý. Ngoài ra họ còn làm nương, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiểu thủ công nghiệp gia đình của dân tộc đặc biệt phát triển. Họ làm gốm bằng bàn xoay với các sản phẩm như chum vại, vò, ché, nồi với chất lượng tốt. Nghề dệt thổ cẩm tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, thể hiện thẩm mỹ tinh tế. Nghề rèn, nghề chạm bạc... cũng góp phần thu nhập đáng kể cho nhiều gia đình. Hái lượm còn có vai trò nhất định đối với đời sống kinh tế của người Lào.

Ăn: Người Lào ăn nếp là chính. Về thực phẩm họ ưa ăn các món chế biến từ cá; đặc biệt có món Pàđẹc (cá ướp) rất nổi tiếng.

Mặc: Phụ nữ Lào mặc váy thắt ngang ngực, buông ngang tầm bắp chân. Gấu váy thêu hoa văn màu tươi sáng rực rỡ. áo nữ ngắn, để hở phần ngực trên. Chiếc trâm bạc cài tóc hay khăn piêu đội đầu của phụ nữ Lào cũng được chạm khắc hoặc thêu thùa khéo léo. Nam phục Lào có nhiều nét tương đồng với người Thái.

Ở: Người Lào cư trú xen kẽ với người Thái, người Lự, người Khơ Mú ở các huyện Ðiện Biên, Phong Thổ (Lai Châu) và Sông Mã (Sơn La). Họ ở nhà sàn, lòng rộng, thoáng đãng, cột kèo được chạm khắc tinh vi. Mái nhà thường kéo dài tạo nên hiên để đặt khung cửi và các công cụ làm vải.

Phương tiện vận chuyển: Người Lào quen gùi, gánh đôi dậu, đặc biệt giỏi đi thuyền trên sông, ở một số nơi họ còn sử dụng ngựa thồ.

Quan hệ xã hội: Trước kia xã hội người Lào tuy phụ thuộc hệ thống tổ chức hành chính của phong kiến Thái nhưng được tự quản ở cấp bản. Mỗi bản có một người đứng đầu gọi là chẩu bản đại diện cho lợi ích cộng đồng. Thiết chế tự quản chi phối nhiều tới hoạt động kinh tế, đời sống tâm linh và đạo đức truyền thống.
Cũng như người Thái, người Lào quan niệm mỗi người có ba quan hệ họ hàng chính: ải Noọng - Lung Ta - Dinh Xao. Các dòng họ đều có tục kiêng cấm liên quan đến tô tem giáo.

Cưới xin: Theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Con trai phía họ Dinh Xao được phép và khuyến khích lấy con gái phía họ Lung Ta, nhưng nghiêm cấm lấy ngược lại. Không có tục hôn nhân anh em chồng hoặc hôn nhân chị em vợ. Gia đình của người Lào dù lớn hay nhỏ mang tính phụ quyền rõ rệt mặc dầu người phụ nữ vẫn được đề cao. Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên nhà chồng. Gia đình của họ thường bền vững, ít có trường hợp đa thê, ngoại tình hay ly dị. Quan hệ trong mỗi nhà thường hoà hiếu, con cái được chăm sóc như nhau không phân biệt trai gái.

Sinh đẻ: Phụ nữ mang thai và sinh đẻ được chăm sóc và quan tâm chu đáo. Họ cũng phải tuân theo nhiều kiêng cấm trong ăn uống cũng như hành vi ứng xử. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau một tháng.

Ma chay: Tục thiêu xác chỉ thực hiện đối với người đứng đầu bản (chầu bản). Các trường hợp khác đều thổ táng. Lễ thiêu xác chầu bản do chẩu hua (ông sư) chủ trì với các nghi thức Phật giáo đã được hoà nhập và cải biến hợp với truyền thống tộc người. Người Lào không khóc trong các đám tang bởi họ quan niệm sự chết chỉ là quá trình thay đổi thế giới.

Lễ tết: Người Lào theo Phật lịch và ăn tết vào tháng 4 âm lịch hàng năm (Bun Pi May). Hàng tháng, vào ngày rằm và ba mươi có tục dâng lễ lên tháp theo nghi thức Phật giáo, lễ vật chỉ có hoa quả. Họ cũng có nhiều nghi thức tín ngưỡng khác liên quan đến nông nghiệp như lễ cầu mưa (Xo Nặm Phôn) hay có tục ăn cơm mới.

Thờ cúng: Mỗi gia đình đều có nơi thờ tổ tiên. Mỗi bản làng có một ông thầy cúng (món) chuyên việc cúng khi có người đau ốm. Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội người Lào.

Học: Người Lào có chữ theo mẫu tự Sanscrit. Hiện nay vẫn còn nhiều sách viết trên lá cọ do các thầy cúng (mo lắm) giữ. Xưa, con trai đều phải kinh qua học sách Phật từ 3 đến 7 năm. Học xong thầy đặt cho học trò là Siêng nghĩa là người đã giỏi chữ.

Văn nghệ: Người Lào có vốn văn học dân gian phong phú với nhiều huyền thoại, cổ tích, dân ca... Phụ nữ Lào không chỉ hát hay mà còn rất giỏi các điệu dân vũ. Do sống xen kẽ lâu đời với người Thái, văn nghệ dân gian Lào ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hoá Thái. Chính điều đó đã làm cho văn nghệ của họ thêm phong phú.

Chơi: Ném còn là trò chơi vui mang tính cộng đồng không thể thiếu trong các ngày lễ. Trẻ em Lào còn thích chơi quay, đánh cầu lông gà.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Dân số: 14.928 người (theo kết tên ban tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)Tính ngôn: hiện đảm thuộc nhóm ngôn tính Tày - Thái (tính hay Thái - Ka Ðai).Lịch sử: Người Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang.Hoạt động ở cạnh: Người Lào làm ruộng nước với kỹ thuật dẫn thuỷ nhập điền hợp lý. Ngoài ra họ còn làm nương, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiểu thủ công nghiệp gia đình của dân tộc đặc biệt phát triển. Họ làm gốm bằng bàn Hoai với các ở sanh như chum vại, vò, che, nồi với chất lượng tốt. Nghề dệt thổ cẩm chức ra nhiều ở sanh có giá trị cao, Bulgaria hiện thẩm mỹ tinh tế. Nghề rèn, nghề chạm bạc... cũng góp phần thu nhập đáng kể cho nhiều gia đình. Hái lượm còn có vai trò nhất định đối với đời sống kinh tế của người Lào.Ăn: Người Lào ăn nếp là chính. Về thực phẩm họ ưa ăn các món chế biến từ cá; Đặc biệt có món Pàđẹc (cá ướp) rất nổi tiếng.Mặc: Phụ nữ Lào mặc váy thắt ngang ngực, buông tầm ngang bắp chân. Gấu váy thêu hoa văn màu tươi dự rực rỡ. áo nữ ngắn, tiếng hở phần ngực trên. Chiếc trâm bạc Thái tóc hay khăn piêu huấn đầu của phụ nữ Lào cũng được chạm khắc hoặc thêu thùa khéo léo. Nam tên Lào có nhiều nét tương đồng với người Thái.Ở: Người Lào cư trú xen kẽ với người Thái, người Lự, người Khơ Mú ở các huyện Ðiện Biên, Phong Thổ (Lai Châu) và Sông Mã (Sơn La). Họ ở nhà sàn, lòng rộng, thoáng đãng, cột kèo được chạm khắc tinh vi. Mái nhà thường kéo 戴思杰 chức nên hiên tiếng đặt khung cửi và các công cụ làm vải.Phương tiện vận chuyển: Người Lào quen gùi, gánh đôi dậu, đặc biệt giỏi đi thuyền trên sông, ở một số nơi họ còn sử scholars ngựa thồ.Quan hay xã hội: Trước kia xã hội người Lào tuy phụ thuộc hay thống tổ chức hành chính của phong kiến Thái nhưng được tự quản ở cấp bản. Mỗi bản có một người đứng đầu gọi là chẩu bản đại diện cho lợi học về đồng. Thiết chế tự quản chi phối nhiều tới hoạt động kinh tế, đời sống tâm linh và đạo đức truyền thống.Cũng như người Thái, người Lào quan niệm mỗi người có ba quân hay họ hàng chính: ải Noọng - Lung Ta - Dinh Xao. Các dòng họ đều có tục kiêng cấm liên quan đến tô tem giáo.Cưới xin: Theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Con trai phía họ Dinh Xao được phép và khuyến khích lấy con gái phía họ Lung Ta, nhưng nghiêm cấm lấy ngược lại. Không có tục hôn nhân anh em chồng hoặc hôn nhân chị em vợ. Gia đình của người Lào dù lớn hay nhỏ mang tính phụ quyền rõ rệt mặc dầu người phụ nữ vẫn được đề cao. Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên nhà chồng. Gia đình của họ thường bền vững, ít có trường hợp đa thê, ngoại tình hay ly dị. Quan hệ trong mỗi nhà thường hoà hiếu, con cái được chăm sóc như nhau không phân biệt trai gái.Sinh đẻ: Phụ nữ mang thai và sinh đẻ được chăm sóc và quan tâm chu đáo. Họ cũng phải tuân theo nhiều kiêng cấm trong ăn uống cũng như hành vi ứng xử. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau một tháng.Ma chay: Tục thiêu xác chỉ thực hiện đối với người đứng đầu bản (chầu bản). Các trường hợp khác đều thổ táng. Lễ thiêu xác chầu bản do chẩu hua (ông sư) chủ trì với các nghi thức Phật giáo đã được hoà nhập và cải biến hợp với truyền thống tộc người. Người Lào không khóc trong các đám tang bởi họ quan niệm sự chết chỉ là quá trình thay đổi thế giới.Lễ tết: Người Lào theo Phật lịch và ăn tết vào tháng 4 âm lịch hàng năm (Bun Pi May). Hàng tháng, vào ngày rằm và ba mươi có tục dâng lễ lên tháp theo nghi thức Phật giáo, lễ vật chỉ có hoa quả. Họ cũng có nhiều nghi thức tín ngưỡng khác liên quan đến nông nghiệp như lễ cầu mưa (Xo Nặm Phôn) hay có tục ăn cơm mới.Thờ cúng: Mỗi gia đình đều có nơi thờ tổ tiên. Mỗi bản làng có một ông thầy cúng (món) chuyên việc cúng khi có người đau ốm. Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội người Lào.Học: Người Lào có chữ theo mẫu tự Sanscrit. Hiện nay vẫn còn nhiều sách viết trên lá cọ do các thầy cúng (mo lắm) giữ. Xưa, con trai đều phải kinh qua học sách Phật từ 3 đến 7 năm. Học xong thầy đặt cho học trò là Siêng nghĩa là người đã giỏi chữ.Văn nghệ: Người Lào có vốn văn học dân gian phong phú với nhiều huyền thoại, cổ tích, dân ca... Phụ nữ Lào không chỉ hát hay mà còn rất giỏi các điệu dân vũ. Do sống xen kẽ lâu đời với người Thái, văn nghệ dân gian Lào ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hoá Thái. Chính điều đó đã làm cho văn nghệ của họ thêm phong phú.Chơi: Ném còn là trò chơi vui mang tính cộng đồng không thể thiếu trong các ngày lễ. Trẻ em Lào còn thích chơi quay, đánh cầu lông gà.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Dân số: 14,928 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 of Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka dai).
Lịch sử: Người Lào have nguồn gốc di cư từ Lào sang.

Hoạt động sản xuất: Người Lào làm ruộng nước as: điện lạnh dẫn thuỷ nhập điền hợp lý. Ngoài ra they còn làm nương, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiểu thủ công nghiệp gia đình of dân tộc đặc biệt phát triển. Họ làm gốm bằng bàn xoay with work like chum vãi, vò, ché, nồi as chất lượng tốt. Nghề dệt thổ cẩm tạo ra nhiều sản phẩm may giá trị cao, thể hiện thẩm mỹ tinh tế. Nghề rèn, nghề chạm bạc ... cũng góp phần thu nhập đáng Kẻ Chợ nhiều gia đình. Hái lượm also vai trò nhất định against đời sống kinh tế of người Lào.

Ăn: Người Lào ăn nếp là chính. Về thực phẩm they ưa ăn các món chế biến từ cá; đặc biệt have món Pàđẹc (cá ướp) much nổi tiếng.

Mặc: Phụ nữ Lào mặc váy thắt ngang ngực, buông ngang tầm bắp chân. Gấu váy thêu hoa văn màu tươi sáng rực rỡ. áo nữ ngắn, để hở phần ngực trên. Chiếc trâm bạc cài tóc hay khăn piêu đội beginning of the phụ nữ Lào are not chạm khắc or thêu Thừa khéo Leo. Nam phục Lào has multiple nét tương đồng as người Thái.

Ở: Người Lào cư trú xen alternate as người Thái, người Lự, người Khơ Mú out all huyện Ðiện Biên, Phong Thổ (Lai Châu) and Sông Mã (Sơn La). Họ out nhà sàn, dài rộng, thoáng đãng, cột kèo been chạm khắc tinh vi. Mái nhà thường kéo dài tạo be hiên to đặt khung cui and other tools làm vải.

Phương tiện vận chuyển: Người Lào quen gui, gánh đôi Dầu, đặc biệt giỏi đi thuyền trên sông, out of some nơi they còn sử dụng ngựa Thơ.

Quan hệ xã hội: Trước kia xã hội người Lào tuy depending hệ thống tổ chức hành chính of phong kiến Thái but not tự quản out cấp bản. Mỗi bản have a người đứng đầu gọi La Châu bản đại diện cho lợi ích cộng đồng. Thiết chế tự quản chi phối nhiều to hoạt động kinh tế, đời sống tâm linh and đạo đức truyền thống.
Cũng like người Thái, người Lào quan niệm every người may ba quan hệ they hàng chính: ải Noong - Lung Ta - Đình Xao . Các dòng they will have tục kiêng cấm related tô tem giáo.

Cưới xin: Theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Con trai Phía they Đình Xao allowed and khuyến khích lấy con gái Phía they Lung Ta, but nghiêm cấm lấy backwards. Không có tục hôn nhân anh em chồng or hôn nhân chị em vợ. Gia đình of the person Lào though lớn hay nhỏ mang tính phụ quyền rõ rét mặc dầu người phụ nữ activities are đề cao. Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên nhà chồng. Gia đình their thường bền vững, ít fields hợp đa thê, ngoại tình hay ly dị. Quan hệ in each nhà thường hoà hiếu, con cái been chăm sóc like nhau do not phân biệt trai gái.

Sinh đẻ: Phụ nữ mang Thái and sinh đẻ been chăm sóc and quan tâm chu đáo. Họ are not Tuân theo nhiều kiêng cấm trong ăn uống as well as hành vi ứng xử. . Trẻ sơ sinh be set tên sau one tháng

Ma chay: Tục thiêu xác chỉ thực hiện against người đứng đầu bản (chầu bản). Các trường hợp khác will thổ táng. Lễ thiêu xác chầu bản làm chau hua (ông sư) chủ trì with nghi thức Phật giáo have been hoà nhập and cải biến combined with traditional tộc người. Người Lào do not khóc in the đám tang bởi they quan niệm sự chết chỉ is too trình changes thế giới.

Lễ tết: Người Lào theo Phật lịch and ăn tết vào tháng 4 âm lịch hàng năm (Bun Pi May). Hàng tháng, vào ngày rằm and ba mươi have tục dâng lễ lên tháp theo nghi thức Phật giáo, lễ vật only hoa quả. Họ also nhiều nghi thức tín ngưỡng khác related nông nghiệp like lễ cầu mưa (Xo Nam Phon) hay no tục ăn cơm mới.

Thờ cúng: Mỗi gia đình will have nơi thờ tổ tiên. Mỗi bản làng have a ông thầy cúng (món) chuyên việc cúng when người đau ốm. Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc to đời sống văn hóa and xã hội người Lào.

Học: Người Lào have chữ theo mẫu tự Sanscrit. Hiện nay still nhiều sách viết trên lá cọ làm all thầy cúng (mo lắm) stored. Xưa, con trai will be kinh qua học sách Phật từ 3 to 7 năm. Học xong thầy đặt cho học trò is sieng means that was người giỏi chữ.

Văn nghệ: Người Lào have Cap văn học dân gian phong phú for multiple huyền thoại, cổ tích, dân ca ... Phụ nữ Lào not only hát hay which còn much giỏi all điệu dân vũ. Đỗ Sông Xen alternate lâu đời as người Thái, văn nghệ dân gian Lào ít nhiều chịu ảnh hưởng of văn hoá Thái. . Chính điều which have làm cho văn nghệ their thêm phong phú

Chơi: Ném còn is trò chơi vui mang tính cộng đồng not missing in the ngày lễ. Trẻ em Lào còn thích chơi quay, đánh cầu lông gà.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: