Văn học reviewĐã có nhiều nghiên cứu gần đây về mối quan hệ giữa các giới tính và hiệu suất công ty với sự đa dạng của nghiên cứu mô hình. Một trong các nghiên cứu định lượng chỉ ra rằng mối quan hệ dựa trên khoảng cách hiệu suất của các doanh nghiệp. Bằng cách sử dụng dữ liệu từ năm 2005 doanh nghiệp môi trường và doanh nghiệp thực hiện khảo sát (tiếng BÍP), dữ liệu khoảng 3334 công ty cấp cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sau 26: 15 từ miền trung và Đông Âu (CEE), 11 từ khối thịnh vượng chung của quốc gia độc lập (CIS), Shwetlena Sabarwal và Katherine Terrell (2008) đã cung cấp một số bằng chứng thực nghiệm từ Đông Âu và trung á như có một khoảng cách đáng kể giới tính ở quy mô hoạt động kinh doanh (khi đo bằng doanh thu bán hàng) và nữ doanh nhân (FE) có quy mô nhỏ hơn đáng kể của hoạt động và là kém hiệu quả hơn trong điều khoản của tất cả các yếu tố năng suất (TFP) bằng cách sử dụng hồi quy mạnh mẽ và xu hướng điểm kết hợp (PSM) để kiểm tra xem sự khác biệt trong hiệu quả. Ngoài ra, họ cũng tuyên bố rằng FE tạo ra cùng một số tiền lợi nhuận cho mỗi đơn vị doanh thu như nam giới. Tuy nhiên, khi cả hai đều là phụ tối ưu kích thước, FE đạt được nhiều hơn từ tăng bán của họ hơn nam giới. Những lý do cho tiểu tối ưu của FE: vốn hạn chế và tập trung trong ngành công nghiệp với doanh nghiệp nhỏ. Một cách tiếp cận khác nhau theo phương pháp định lượng là cũng rất thú vị là rằng việc sử dụng nhiều hồi qui mô hình. Nham Phong Tuấn (2011) đã cung cấp một số bằng chứng thực nghiệm để phân tích hiệu quả của giới tính vào sự phát triển của các doanh nghiệp vừa nhỏ dựa trên ước tính kết quả bằng cách sử dụng dữ liệu của DNN & v 353 bắt nguồn từ các số liệu thứ cấp từ năng suất và đầu tư khí hậu doanh nghiệp khảo sát (WB) vào năm 2005. Có lẽ đề cập như Nam thuộc sở hữu công ty thực hiện tốt hơn so với phụ nữ-sở hữu công ty. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng không chỉ giới tính nhưng chiến lược giới thiệu sản phẩm mới, công ty kích thước và công ty tuổi cũng đã là đáng kể các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của DNN & v sản xuất. Ngoài các phương pháp định lượng, còn có một số phương pháp khác chẳng hạn như câu hỏi khảo sát hoặc sử dụng lý thuyết kinh tế để cung cấp cho bằng chứng thực nghiệm và giải thích mối quan hệ giữa các giới tính và hiệu suất công ty. Bằng cách sử dụng bảng câu hỏi và với dữ liệu từ 324 phụ nữ doanh nhân và quản lý phụ nữ và bán cấu trúc cuộc phỏng vấn với tổ chức kinh doanh của phụ nữ và phi chính phủ hoạt động ở Bulgaria, Antonina Stoyanovska (2001) cũng làm cho các kết quả nghiên cứu rất thú vị. Có bốn kết quả như sau: (1) phụ nữ có khả năng ít hơn nam giới để xem xét việc đi vào kinh doanh cho mình, và nhiều khả năng thất bại hơn nam giới; (2) phụ nữ lãnh đạo doanh nghiệp đó tồn tại và phát triển có xu hướng cung cấp đáng kể thêm việc làm trung bình hơn nam đứng đầu các doanh nghiệp; (3)-văn hoá xã hội các rào cản để nhập doanh nghiệp tư nhân là cao hơn cho phụ nữ hơn cho nam giới; (4) phụ nữ cũng được giáo dục, trẻ hơn tại các thị trấn lớn hơn đã là nhiều khả năng được quan tâm trong việc mở rộng kinh doanh của họ. Olabisi Sherifat Yusuff, Andrew Akinola Olagbemi và Adewole Akinwole Atere (2010) thả neo trên các lý thuyết nữ quyền để giải thích như vậy phân biệt giới tính và thu thập dữ liệu bằng cách sử dụng cấu trúc bảng câu hỏi. Cụ thể hơn, nghiên cứu này cho thấy rằng yếu tố ảnh hưởng đến phụ nữ thuộc sở hữu doanh nghiệp là đáng kể khác nhau từ yếu tố ảnh hưởng đến người đàn ông sở hữu doanh nghiệp. Ví dụ: hôn nhân tình trạng (64%), tuổi (68%) với phụ nữ; bạn bè (70%), chính phủ hỗ trợ (80%) với người đàn ông. Bên cạnh, phụ nữ xem xét khả năng kết hợp gia đình và làm việc cùng nhau như là động lực để bắt đầu một doanh nghiệp, người đàn ông là thành tựu kinh doanh theo định hướng. Tập trung vào mối quan hệ giữa các doanh nhân giới tính và khó khăn tài chính, bằng cách sử dụng các mô hình phản ứng nhị phân (Tobit) và dữ liệu từ môi trường kinh doanh, hiệu suất doanh nghiệp khảo sát (tiếng BÍP): 5022 quan sát trong đó 1358 từ các thành viên cũ của EU; 1178 từ các quốc gia thành viên mới (năm 2004), Alexander Muravyev, Dorothea Schafer và Oleksandr Talavera (2007) kết luận công ty quản lý nữ là ít có khả năng để có được một khoản vay ngân hàng so với nữ quản lý đối tác. Cụ thể, nữ quản lý công ty có xác suất thấp hơn 5,4% nhận được một khoản vay hơn những người quản lý nữ. Nữ doanh nhân phải trả lãi suất cao hơn khi ứng dụng vốn vay được phê duyệt. Những kết quả này được thúc đẩy bởi các công ty trong ít nhất là về tài chính phát triển.
đang được dịch, vui lòng đợi..
