Giới thiệu
Một hệ thống tài chính được định nghĩa như là một sự kết hợp phức tạp của các tổ chức tài chính và thị trường, trong đó cung cấp các phương pháp huy động và giao dịch quỹ cho các doanh nghiệp (IMF, 2006). Trong một nền kinh tế, hệ thống tài chính có vai trò quan trọng trong việc quản lý dòng chảy nguồn lực và tạo ra một môi trường kinh tế ổn định cho các doanh nghiệp để hoạt động. Vì vậy, nó có thể được coi là sự mượt mà trong hoạt động của một hệ thống tài chính là một chỉ số cho sức khỏe của nền kinh tế.
Sau khi suy thoái kinh tế trong năm 2008, nhiều quốc gia đã phải đối mặt với sự cố kinh tế nghiêm trọng. Một số thậm chí trên bờ vực của sự sụp đổ như Hy Lạp và Italy. Mặt khác, một số nước quản lý để giữ một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thậm chí ngày càng tăng, mà là rất điển hình cho các nước châu Á mới nổi. Những lời giải thích cho sự khác biệt này có thể nằm trên các cấu trúc của hệ thống tài chính của các nước này.
Bài viết này sẽ cung cấp một tiếp tục nhìn vào một hệ thống tài chính của Việt Nam, một quốc gia mới nổi Đông Nam Á duy trì một tốc độ tăng trưởng GDP ổn định sau khi suy thoái kinh tế. Các thành phần của hệ thống tài chính, các vấn đề hiện tại của phân khúc cốt lõi của nó được ngân hàng khu vực và khuyến nghị cho việc cải thiện hệ thống tài chính ở Việt Nam sẽ được sẽ được thảo luận chi tiết trong các phần tiếp theo của bài luận.
Các hệ thống tài chính của Việt Nam
Tổng quan về hệ thống tài chính của Việt Nam
Như đã đề cập trước đó, một hệ thống tài chính là một mạng lưới các trung gian tài chính và thị trường cho phép quỹ chuyển cả nền kinh tế. Hệ thống tài chính của Việt Nam cũng không ngoại lệ. Việt Nam có dân số khoảng 90 triệu USD với GDP bình quân đầu người là $ 1,910.53. Tổng tiết kiệm trong nước của Việt Nam chiếm gần 30% GDP, trong đó bao hàm một số lượng đáng kể các quỹ có sẵn. Với một nền kinh tế tăng trưởng ở mức 5,7% mỗi năm, sự cần thiết của việc phân bổ vốn là rất lớn ở Việt Nam. Kết quả là, hệ thống tài chính tồn tại để cho phép việc chuyển giao quỹ để thực hiện được.
2
Hình 1. Dòng tiền vào hệ thống tài chính
Nguồn: Mishkin và Eakins (2012)
Giống như trong hệ thống tài chính nhất, ở Việt Nam, các quỹ có thể được chuyển giao từ người tiết kiệm cho khách hàng vay hoặc thông qua tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp tài chính. Trong trường hợp tài chính trực tiếp, gửi tiết kiệm với số tiền vượt quá kinh phí trực tiếp cho vay tiền của họ với những người vay tiền có nhu cầu về vốn thông qua thị trường tài chính. Mặt khác, trong các tài chính gián tiếp, các trung gian tài chính đóng vai trò của một người đàn ông trung giữa tiết kiệm và vay khi họ tham gia vào các hoạt động chia sẻ rủi ro và biến đổi tài sản khác nhau. Các trung gian tài chính lớn trong hệ thống tài chính của Việt Nam là ngân hàng, công ty chứng khoán, công đoàn tín dụng, công ty cho thuê và các công ty bảo hiểm. Các trung gian tài chính được giám sát bởi các cơ quan chính phủ như Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bộ Tài chính giám sát tất cả các hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường và đặt ra mục tiêu cho sự phát triển của hệ thống tài chính nói chung. Hỗ trợ Bộ Tài chính đang departments1 khác nhau, mỗi một lĩnh vực giám sát của hệ thống tài chính. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tập trung vào giám sát các tổ chức tín dụng, đóng vai trò là người cho vay cuối cùng cho ngành ngân hàng và phối hợp với Bộ Tài chính để thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ.
Mặc dù có rất nhiều các trung gian tài chính, hệ thống tài chính của Việt Nam có thể được coi là hệ thống tài chính ngân hàng có trụ sở. Kết luận này là
1 Xem Phụ lục cho cơ cấu tổ chức
3
được rút ra bằng cách kiểm tra các loại chủ yếu của công cụ tài chính. Theo đề nghị của Vitols (2001), một hệ thống tài chính có thể được phân loại là các ngân hàng có trụ sở hoặc dựa vào thị trường dựa trên công cụ tài chính chi phối của nó. Theo báo cáo của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tổng vốn hóa thị trường của Việt Nam trong năm 2013 là khoảng 964.000 tỷ đồng, xấp xỉ 46 $ billion2. Mặt khác, tổng số dư nợ vào cuối năm 2013 từ khu vực ngân hàng là khoảng 170 $ billion3, gần 3,7 lần so với tổng vốn hóa thị trường. Như được thể hiện bằng các con số, các nền kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào các lĩnh vực ngân hàng để phân bổ quỹ của nó, đó là đặc tính của một hệ thống tài chính ngân hàng có trụ sở.
Hệ thống tài chính của Việt Nam, được thành lập và phát triển cùng với cuộc cách mạng giải phóng trong năm 1950 , vẫn còn xa mới là hoàn hảo. Hiện vẫn còn rất nhiều vấn đề đang trở nên nổi bật hơn sau khi suy thoái kinh tế trong năm 2008. Đối với một hệ thống tài chính ngân hàng dựa trên, hầu hết các vấn đề của hệ thống tài chính của Việt Nam đến từ các lĩnh vực ngân hàng. Các phần tiếp theo của bài tiểu luận sẽ thảo luận thêm về các vấn đề tồn tại trong lĩnh vực ngân hàng, các thành phần chính của hệ thống tài chính và đề xuất một số khuyến nghị cho Việt Nam.
Các vấn đề trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam
Sau khi suy thoái kinh tế trong năm 2008, ngành ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với các vấn đề khác nhau mà vẫn chưa được giải quyết. Những vấn đề này được giữ lại sự phát triển của ngành ngân hàng cũng như các hệ thống tài chính của Việt Nam.
Vấn đề đầu tiên là tăng trưởng tín dụng thấp mà đã trở thành một vấn đề quan trọng được thảo luận trong nhiều cuộc họp của quốc hội Việt thời gian gần đây. Tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp là một trong những hậu quả trực tiếp của suy thoái kinh tế. Khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là tương đối thấp, cơ hội đầu tư không đủ làm chậm tốc độ tăng trưởng tín dụng. Trong khi đó, nguồn chính của các ngân hàng của doanh thu là việc trả lãi từ các khoản cho vay. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp, khả năng kiếm tiền của khu vực ngân hàng là thiệt hại nặng nề.
2 Sử dụng giá chính thức của năm 2013 từ Ngân hàng Thế giới (2014)
3 tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Ngân hàng Á deveopment (2014)
4
Hình 2. Số tín chỉ tốc độ tăng trưởng (%) của Việt Nam 2009-2014
Nguồn: IMF (2014)
Tính đến cuối năm 2009, tăng trưởng tín dụng của Việt Nam đã giảm đáng kể từ 39,6% đến điểm thấp nhất là 8,7% trong năm 2012. Mặc dù nhiều biện pháp đối phó từ Chính phủ Việt Nam, tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng ở mức khiêm tốn là 12,4% trong năm 2012. IMF (2014) dự báo rằng vào cuối năm 2014 tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam sẽ là 13,1%, khoảng một phần ba của tốc độ tăng trưởng tín dụng ở cuối năm 2009, mà không phải là một triển vọng tươi sáng cho ngành ngân hàng trong những năm đến.
Thứ hai, mặc dù các ngân hàng là hình thức tổ chức tài chính lâu đời nhất ở Việt Nam, hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng vẫn còn có vấn đề. Ngô (2012) thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm và kết luận rằng ngành ngân hàng đã trở nên kém hiệu quả hơn khi kích thước của nó phát triển. Theo ông Ngô (2012), một phần ba công suất của các ngân hàng đang bị lãng phí. Tình trạng này có thể được giải thích bởi sự ảnh hưởng của môi trường vĩ mô và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngành công nghiệp ngân hàng. Ở Việt Nam, hiện có 39 ngân hàng thương mại, 14 ngân hàng thuộc sở hữu hoàn toàn của nước ngoài và chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài và 6 ngân hàng liên doanh. Mặc dù số lượng đáng kể của các ngân hàng trong hoạt động, thị trường ngân hàng tại Việt Nam là chủ yếu thuộc về các banks4 thương mại thuộc sở hữu nhà nước năm.
4 năm ngân hàng thương mại nhà nước là Agribank, MHB, Vietinbank, Vietcombank và BIDV. Vào cuối năm 2011, ngoại trừ Agribank, tất cả các ngân hàng thương mại nhà nước đã trở thành ngân hàng thương mại cổ phần có sở hữu nhà nước chi phối.
39,6
32,4
14,3
8,7
12,4
13,1
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
2009
2010
2011
2012
2013 (Est)
2014
(Projection)
5
Hình 3. Tỷ lệ tín dụng cho nền kinh tế của nhóm các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
Nguồn: OECD (2013)
Như có thể thấy từ con số 3, kể từ năm 2001, đã có một sự gia tăng ổn định trong thị phần của ngoài quốc doanh ngân hàng thương mại cổ phần. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại nhà nước là chủ nợ của nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong thị trường cho rằng họ nắm giữ hơn 50% thị phần. Khi tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đã được đáng kể mức thấp gần đây, các nguồn thu nhập cho ngân hàng đã giảm đáng kể. Các ngân hàng nhỏ sẽ phải đấu tranh và cạnh tranh với nhau để đảm bảo một nguồn thu nhập. Điều này cũng tương tự như các view Standard & Poor (2014) rằng có quá nhiều ngân hàng ở Việt Nam mà ngăn cản họ đạt được mức lợi nhuận mong muốn.
Vấn đề thứ ba trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam là mức cao của nợ xấu hay nợ xấu . Vấn đề này có lẽ một hậu quả của suy thoái kinh tế trong năm 2008, nhưng nó cũng đặt ra một câu hỏi về kiểm soát chất lượng tín dụng của các ngân hàng tại Việt Nam. Từ năm 2009 đến năm 2012, tỷ lệ nợ xấu đã tăng từ 2,05% lên con số gần gấp đôi 4,08%. Tốc độ phát triển nhanh của nợ xấu đã buộc chính phủ Việt để can thiệp thị trường bằng cách thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) vào tháng Sáu năm 2013. Vai trò chính của VAMC là mua lại nợ xấu từ các ngân hàng , cơ cấu lại các khoản vay và bán các khoản cho vay tái cấu trúc lại thị trường. Từ tháng 10 năm 2013 đến hết năm 2013, VAMC mua lại nợ xấu với giá trị
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
ngân hàng thương mại Nhà nước sở hữu
các ngân hàng thương mại cổ phần
phần liên doanh và các ngân hàng thương mại nước ngoài hoàn toàn thuộc sở hữu
khác
6
gần 39.000 tỷ đồng, xấp xỉ $ 1860000000, trong đó quản lý để đưa xuống các phần nợ xấu năm 2013 lên 3,6%.
Hình 4. Tỷ lệ nợ xấu 2008-2013
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
số tăng không phải là mối quan tâm duy nhất về nợ xấu của Việt Nam. Sự tin cậy của các con số báo cáo cũng được các nghi ngờ của các tổ chức quốc tế. Do sự thiếu minh bạch trong báo cáo nợ xấu, nhiều cơ quan đánh giá quốc tế cho rằng con số thực của nợ xấu là cao hơn nhiều so với những gì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã công bố. Ví dụ, theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu năm 2013 là khoảng 3,6%. Con số này có thể lên
đang được dịch, vui lòng đợi..