Nhiều nghiên cứu được tiến hành ở các nước khác đã chỉ ra rằng quá trình thu thập và bảo vệ quyền tại đất vốn là một một chính trị dựa trên các mối quan hệ quyền lực giữa các thành viên của các nhóm xã hội. Thành viên trong
76
nhóm xã hội là, bởi chính nó, không phải là một điều kiện đủ để đạt được và duy trì tiếp cận đất đai. Về vấn đề này, Johnson (1997) đã khéo léo nói rằng khái niệm của một tổ chức xã hội dân tộc được chia sẻ và giới hạn trong bản địa dân tộc thiểu số che lấp, một mặt, một tương đồng văn hóa cơ bản và, mặt khác, những căng thẳng khác nhau vốn có trong các hình xã hội.
Luật đất đai năm 2001 ghi nhận sự di động truyền thống của các hội viên của một cộng đồng bản địa như là một phần của con đường của họ về quản lý đất đai. "Các vùng đất của các cộng đồng bản địa bao gồm không chỉ những vùng đất thực hoá tivated nhưng đất cũng reserved cần thiết cho việc canh tác nương rẫy mà là yêu cầu của phương pháp nông nghiệp mà họ đang thực hành và được công nhận bởi các cơ quan hành chính" (Điều 25b). Trong khi trong quá khứ các chế độ khác nhau chủ động di dời người dân bản địa vùng cao để ngăn chặn hoạt động của họ truyền thống canh tác nương rẫy (x Chazee 1994 trong trường hợp của CHDCND Lào), thừa nhận pháp lý Luật Đất đai mới của tính di động truyền thống của các dân tộc bản địa như là một phần của cách truyền thống của họ về quản lý đất đai là điều đáng mừng.
đang được dịch, vui lòng đợi..
