Khi m ≤ 100 và | Σ | = 2, 4, 8, 16, FQS là nhanh hơn nhiều so với những người khác. Hình 6 cho thấy
hiệu suất của thuật toán trong các trường hợp này. Khi | Σ | = 2, 4, 8, 16, các xu hướng tương tự: FQS
là thuật toán nhanh nhất trong số bốn. QS là tốt nhất thứ hai, đó là hơi tốt hơn so với
Horspool (ký hiệu là HOR trong các con số);
• Khi m ≤ 100 và | Σ | = 32, 64, 128, 256, FQS và FJS chứng minh một hiệu suất cạnh tranh,
đó là tốt hơn so với QS và HOR. Hình 7 cho thấy những màn trình diễn của bốn thuật toán trong
những tình huống này. Với sự gia tăng của kích thước bảng chữ cái, các hoạt động của bốn thuật toán
có xu hướng tương tự. Mặc dù FQS vẫn là một trong những tốt nhất, lợi thế thực hiện trên
những người khác ít rõ ràng. Từ hình 7, chúng ta có thể thấy rằng, khi chiều dài mô hình là nhỏ (ví dụ,
với m <20), FJS cung cấp hiệu suất tốt nhất trong số bốn thuật toán;
• Khi m ≥ 100 và | Σ | = 2, 4, 8, 16, 32, 64, FQS cung cấp các kết quả tốt nhất trong số bốn
thuật toán. Hình 8 cho thấy các kết quả so sánh. Khi kích thước bảng chữ cái là hai, bốn và
tám, tương ứng, QS là tốt nhất thứ hai. Khi kích thước bảng chữ cái là 32, và 64, FJS được xếp hạng là
tốt nhất thứ hai, chỉ kém hơn FQS;
đang được dịch, vui lòng đợi..