Việt Nam tham gia các bộ phận và điện tử
thành phần thương mại. Xuất khẩu điện thoại di động và các
bộ phận trong tám tháng đầu năm 2014 có giá trị
tại Mỹ $ 15200000000, vượt qua thậm chí xuất khẩu
hàng may mặc trị giá $ 13600000000 cho cùng một
khoảng thời gian, và sự tăng trưởng của một số 10 phần trăm năm onyear
chỉ ra rằng xu hướng này đang tiếp tục. Xem
hình 1.
Thật vậy, trong vòng bảy năm qua kể từ khi
nổ ra cuộc khủng hoảng tài, Việt Nam đã có một dòng
vốn FDI từ đa quốc gia trong điện tử và
các ngành công nghiệp liên quan đến "hi-tech" mà liên kết các
quốc gia với mạng lưới sản xuất của khu vực Đông Á,
và biến đổi đáng kể mô hình xuất khẩu
(Bingham và Leung 2010; Athukorala và
Tiên năm 2012).
Hình 2 cho thấy rằng việc xuất khẩu các thiết bị điện tử và các bộ phận liên quan và các thành phần trong
năm 2013 đã phát triển đến hơn 34 phần trăm của Việt Nam
giỏ xuất khẩu, so với ít hơn 4 phần trăm
một thập kỷ trước đó.
Nền tảng cho sự phát triển này đã được đặt
trong các cải cách cơ cấu trong năm đầu của
thập niên 2000. Khi các doanh nghiệp đa quốc gia là rất cần thiết
để tham gia vào các mạng lưới sản xuất,
thay đổi quy định trong đó giải phóng các nước
khu vực tư nhân và đó san bằng sân chơi
đến một mức độ nhất định giữa các doanh nghiệp nước ngoài và
doanh nghiệp trong nước là quan trọng trong việc khuyến khích sự
xâm nhập của các công ty đa quốc như Intel, Samsung
và Nokia.1 Hơn nữa, việc giảm chi phí
thông tin liên lạc,
giao thông, điện và các chi phí liên quan đến việc kinh doanh đi từ
một của nhà nước (còn được gọi là "liên kết dịch vụ"
chi phí, xem Kimura 2006 và Baldwin 2006) cũng
thêm vào sức hấp dẫn của Việt Nam, ngoài thấp
chi phí lao động cho đa quốc gia nước ngoài. Trong năm 2002,
chi phí cho các cuộc gọi điện thoại quốc tế, container
vận chuyển và điện tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh Thành (TP HCM) đã thuộc hàng cao nhất trong
Đông và các thành phố Đông Nam Á, mặc dù
chi phí lao động đã (và vẫn là) tương đối thấp.
Tuy nhiên, đến năm 2006, các chi phí kinh doanh
ở các thành phố Việt đã được hạ xuống và trở thành
có thể so sánh với các thành phố châu Á khác (xem Hình
11,15-11,20 trong Leung 2012). điện và các chi phí liên quan đến việc kinh doanh đi từ một của nhà nước (còn được gọi là "liên kết dịch vụ" chi phí, xem Kimura 2006 và Baldwin 2006) cũng thêm vào sức hấp dẫn của Việt Nam, ngoài thấp chi phí lao động cho đa quốc gia nước ngoài. Trong năm 2002, chi phí cho các cuộc gọi điện thoại quốc tế, container vận chuyển và điện tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh Thành (TP HCM) đã thuộc hàng cao nhất trong Đông và các thành phố Đông Nam Á, mặc dù chi phí lao động đã (và vẫn là) tương đối thấp. Tuy nhiên, đến năm 2006, các chi phí kinh doanh ở các thành phố Việt đã được hạ xuống và trở thành có thể so sánh với các thành phố châu Á khác (xem Hình 11,15-11,20 trong Leung 2012). điện và các chi phí liên quan đến việc kinh doanh đi từ một của nhà nước (còn được gọi là "liên kết dịch vụ" chi phí, xem Kimura 2006 và Baldwin 2006) cũng thêm vào sức hấp dẫn của Việt Nam, ngoài thấp chi phí lao động cho đa quốc gia nước ngoài. Trong năm 2002, chi phí cho các cuộc gọi điện thoại quốc tế, container vận chuyển và điện tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh Thành (TP HCM) đã thuộc hàng cao nhất trong Đông và các thành phố Đông Nam Á, mặc dù chi phí lao động đã (và vẫn là) tương đối thấp. Tuy nhiên, đến năm 2006, các chi phí kinh doanh ở các thành phố Việt đã được hạ xuống và trở thành có thể so sánh với các thành phố châu Á khác (xem Hình 11,15-11,20 trong Leung 2012). thấy Kimura 2006 và Baldwin 2006) cũng thêm vào sức hấp dẫn của Việt Nam, ngoài thấp chi phí lao động cho đa quốc gia nước ngoài. Trong năm 2002, chi phí cho các cuộc gọi điện thoại quốc tế, container vận chuyển và điện tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh Thành (TP HCM) đã thuộc hàng cao nhất trong Đông và các thành phố Đông Nam Á, mặc dù chi phí lao động đã (và vẫn là) tương đối thấp. Tuy nhiên, đến năm 2006, các chi phí kinh doanh ở các thành phố Việt đã được hạ xuống và trở thành có thể so sánh với các thành phố châu Á khác (xem Hình 11,15-11,20 trong Leung 2012). thấy Kimura 2006 và Baldwin 2006) cũng thêm vào sức hấp dẫn của Việt Nam, ngoài thấp chi phí lao động cho đa quốc gia nước ngoài. Trong năm 2002, chi phí cho các cuộc gọi điện thoại quốc tế, container vận chuyển và điện tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh Thành (TP HCM) đã thuộc hàng cao nhất trong Đông và các thành phố Đông Nam Á, mặc dù chi phí lao động đã (và vẫn là) tương đối thấp. Tuy nhiên, đến năm 2006, các chi phí kinh doanh ở các thành phố Việt đã được hạ xuống và trở thành có thể so sánh với các thành phố châu Á khác (xem Hình 11,15-11,20 trong Leung 2012). thùng vận chuyển và điện tại Hà Nội và Chi Hồ Minh Thành (TP HCM) đã thuộc hàng cao nhất trong Đông và các thành phố Đông Nam Á, mặc dù chi phí lao động đã (và vẫn là) tương đối thấp. Tuy nhiên, đến năm 2006, các chi phí kinh doanh ở các thành phố Việt đã được hạ xuống và trở thành có thể so sánh với các thành phố châu Á khác (xem Hình 11,15-11,20 trong Leung 2012). thùng vận chuyển và điện tại Hà Nội và Chi Hồ Minh Thành (TP HCM) đã thuộc hàng cao nhất trong Đông và các thành phố Đông Nam Á, mặc dù chi phí lao động đã (và vẫn là) tương đối thấp. Tuy nhiên, đến năm 2006, các chi phí kinh doanh ở các thành phố Việt đã được hạ xuống và trở thành có thể so sánh với các thành phố châu Á khác (xem Hình 11,15-11,20 trong Leung 2012).
đang được dịch, vui lòng đợi..