Khoảng thời gian từ lúc Hồi giáo xâm nhập cho đến khi nó trở thành tôn dịch - Khoảng thời gian từ lúc Hồi giáo xâm nhập cho đến khi nó trở thành tôn Việt làm thế nào để nói

Khoảng thời gian từ lúc Hồi giáo xâ

Khoảng thời gian từ lúc Hồi giáo xâm nhập cho đến khi nó trở thành tôn giáo thống trị ở một số nước Đông Nam Á không phải là dài, bởi vì Hồi giáo đến Đông Nam Á với rất nhiều thuận lợi.
Thứ nhất, thời kì Hồi giáo hoá Đông Nam Á trùng hợp với thời kì khủng hoảng của các vương quốc cổ đại như ở Chămpa lục địa. Vào cuối thế kỉ XV, quốc gia Ấn Độ- Phật giáo Majapahit hùng mạnh trước kia đang bị suy thoái và tan rã. Các tiểu quốc thuộc đế quốc này tách ra khỏi chính quyền trung ương, giành độc lập về kinh tế, chính trị, kéo theo sự sụp đổ của hệ tư tưởng- tôn giáo cũ. Lúc này, hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ giáo đã trở nên lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của chế độ xã hội với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Sự khủng hoảng của hệ tư tưởng Ấn Độ giáo tạo sự trống rỗng trong niềm tin và một lỗ hổng để tôn giáo mới len vào, đó là Hồi giáo- tôn giáo của các thương gia. Nếu như trước đây Hồi giáo ra đời góp phần thống nhất các bộ lạc trên bán đảo Arập thành một đế quốc Hồi giáo vững mạnh, thì lúc này Hồi giáo lại trở thành ngọn cờ của các tiểu quốc trên quần đảo Inđônêxia đấu tranh giành độc lập, phát triển kinh tế, chính trị và quân sự. Tấm gương tiêu biểu là Hồi giáo Malăcca. Malăcca trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất từ một làng đánh cá nghèo khó sau khi giành độc lập. Sau đó, Malăcca không chỉ là trung tâm buôn bán quốc tế quan trọng, mà còn là một trung tâm truyền giáo lớn nhất thời bấy giờ. Các tiểu quốc khác coi Malăcca là tấm gương, chỗ dựa về kinh tế và tinh thần của họ. Các tiểu quốc miền duyên hải sau khi đi vào quĩ đạo buôn bán với Malăcca dần bị lệ thuộc về tinh thần và cuối cùng trở thành những quốc gia Hồi giáo. Các tiểu quốc thấy rõ Hồi giáo là một vũ khí chính trị sắc bén, giúp tạo dựng một cộng đồng Hồi giáo lớn để thực hiện ý đồ bành trướng lãnh thổ và truyền bá văn hoá của mình,
Thứ hai, quá trình Hồi giáo hoá các vương quốc hải đảo phù hợp với quá trình chuyển hướng kinh tế của khu vực. Từ một nền kinh tế tự cung, tự cấp các tiểu quốc đã trở thành nơi cung cấp hàng hoá quan trọng, nhất là hương liệu cho châu Âu, do vậy đã sẵn sàng mở cửa cho các thương gia Hồi giáo ngoại quốc vào buôn bán và truyền giáo. Trong khi đó, nguyên tắc bình đẳng, tính phóng khoáng, đơn giản trong lễ nghi của Hồi giáo vốn phù hợp với tầng lớp thương nhân đã được giới quí tộc Inđônêxia và Malaisia tiếp đón. Hơn nữa, khác với khu vực Trung Đông, Hồi giáo đến Đông Nam Á bằng con đường hoà bình, thông qua các cuộc tiếp xúc cá nhân, các cuộc hôn phối của thương nhân Hồi giáo đến định cư, với con gái các tầng lớp quí tộc địa phương. Con đường cải giáo hoà bình và tự nhiên đó rất phù hợp với tâm lý của các cư dân địa phương, giúp họ dễ dàng hoà nhập, tiếp thu Hồi giáo.
Thứ ba, chính tính bao dung, mềm dẻo và thích nghi của Hồi giáo đối với các tín ngưỡng truyền thống địa phương đã khiến cho Hồi giáo mau chóng chiếm được ưu thế ở các nước Đông Nam Á. Trong quá trình Hồi giáo hoá, một số tập tục, truyền thống địa phương lại góp phần đắc lực đẩy nhanh quá trình Hồi giáo hoá. Ví dụ như ở Inđônêsia, chế độ vương quyền và lòng trung thành với nhà vua trên quần đảo Malay đã khiến cho khi nhà vua cải đạo theo Hồi giáo thì nhất loạt dân chúng cũng mau chóng cải đạo theo.
Thứ tư, khi Hồi giáo đến Ấn độ đã tiếp thu chủ nghĩa thần bí của phương Đông. Chính yếu tố thần bí này đã trở thành điểm riêng biệt của Hồi giáo Đông Nam Á và làm cho Hồi giáo mau chóng có vị trí vững chắc ở nơi đây và dễ dàng xâm nhập vào các cư dân từ lâu đã sống trong ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ. Các cư dân Đông Nam Á bản địa dễ dàng tiếp thu Hồi giáo và đây cũng là xứ sở hiếm hoi mà Hồi giáo không phải dùng bạo lực để loại trừ những tôn giáo đã được thiết lập từ trước. Ngược lại, với kinh nghiệm song song tồn tại với các tôn giáo khác ở Ấn Độ, Hồi giáo tiếp tục biến đổi, uốn mình theo các phong tục truyền thống của địa phương. Thực ra, không phải khi đến Ấn Độ, Hồi giáo mới tiếp thu các yếu tố thần bí của phương Đông, mà các yếu tố này đã có sẵn trong truyền thống văn hoá của các cư dân vùng bán đảo Arập - nơi phát sinh của Hồi giáo và chúng đi vào Hồi giáo một cách tự nhiên. Có thể nói, chính những yếu tố thần bí trong Hồi giáo và khả năng kết hợp với các tín ngưỡng địa phương đã đẩy nhanh quá trình cải giáo ở khu vực này.
Thứ năm, việc sử dụng ngôn ngữ Malai để truyền giáo cũng góp phần làm cho Hồi giáo phát triển nhanh trên quần đảo Malay- Inđônêxia, sau đó là khu vực Đông Nam Á. Người Hồi giáo đã chọn tiếng Malai mà không chọn những ngôn ngữ khác trong khu vực, bởi vì từ thời tiền Hồi giáo, tiếng Malai đã được sử dụng rộng rãi và trở thành ngôn ngữ trung gian để giao tiếp, đặc biệt là trong giao lưu buôn bán của khu vực. Khi Hồi giáo đến, tiếng Malai đã đạt trình độ ngôn ngữ văn hoá tinh tế. Tiếng Malai được sử dụng hầu như trên khắp các cộng đồng Hồi giáo cho tới tận Campuchia và Việt Nam.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Khoảng thời gian từ lúc Hồi giáo xâm nhập cho đến khi nó trở thành tôn giáo thống trị ở một số nước Đông Nam Á không phải là 戴思杰, bởi vì Hồi giáo đến Đông Nam Á với rất nhiều thuận lợi.Thứ nhất, thời kỳ Hồi giáo hóa Đông Nam Á trùng hợp với thời kỳ khủng hoảng của các vương quốc cổ đại như ở Chămpa lục địa. Vào cuối thế kỉ XV, quốc gia Ấn Độ-Phật giáo Majapahit hùng mạnh trước kia đang bị suy thoái và tan rã. Các tiểu quốc thuộc đế quốc này tách ra khỏi chính quyền trung ương, giành độc lập về kinh tế, chính trị, kéo theo sự sụp đổ của hay tư tưởng-tôn giáo cũ. Lúc này, hay thống đẳng cấp của Ấn Độ giáo đã trở nên lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của chế độ xã hội với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Sự khủng hoảng của hay tư tưởng Ấn Độ giáo chức sự nón rỗng trong niềm tin và một lỗ hổng tiếng tôn giáo mới len vào, đó là Hồi giáo tôn giáo của các thương gia. Nếu như trước đây Hồi giáo ra đời góp phần thống nhất các bộ lạc trên bán đảo Arập thành một đế quốc Hồi giáo vững mạnh, thì lúc này Hồi giáo lại trở thành ngọn cờ của các tiểu quốc trên quần đảo Inđônêxia tác tranh giành độc lập, phát triển kinh tế, chính trị và quân sự. Tấm gương tiêu biểu là Hồi giáo Malăcca. Malăcca trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất từ một làng đánh cá phối khó sau khi giành độc lập. Sau đó, Malăcca không chỉ là trung tâm buôn bán quốc tế quan trọng, mà còn là một trung tâm truyền giáo lớn nhất thời bấy giờ. Các tiểu quốc Micae coi Malăcca là tấm gương, chỗ dựa về kinh tế và tinh thần của họ. Các tiểu quốc miền chương hải sau khi đi vào quĩ đạo buôn bán với Malăcca bài bị lệ thuộc về tinh thần và cuối cùng trở thành những quốc gia Hồi giáo. Các tiểu quốc thấy rõ Hồi giáo là một vũ Phật chính trị sắc bén, giúp chức dựng một về đồng Hồi giáo lớn tiếng thực hiện ý đồ bành trướng lãnh thổ và truyền bá văn hóa của mình,Thứ hai, quá trình Hồi giáo hóa các vương quốc hải đảo phù hợp với quá trình chuyển hướng kinh tế của khu vực. Từ một nền kinh tế tự cung, tự cấp các tiểu quốc đã trở thành nơi cung cấp hàng hóa quan trọng, nhất là hương suất cho châu Âu, do vậy đã sẵn sàng mở cửa cho các thương gia Hồi giáo ngoại quốc vào buôn bán và truyền giáo. Trong khi đó, nguyên tắc bình đẳng, tính phóng khoáng, thể giản trọng lễ nghi của Hồi giáo vốn phù hợp với tầng lớp thương nhân đã được giới quí tộc Inđônêxia và Malaisia truyện đón. Hơn nữa, ông với khu vực Trung Đông, Hồi giáo đến Đông Nam Á bằng con đường hoà bình, thông qua các cuộc truyện xúc cá nhân, các cuộc hôn phối của thương nhân Hồi giáo đến định cư, với con gái các tầng lớp quí tộc địa phương. Con đường cải giáo hoà bình và tự nhiên đó rất phù hợp với tâm lý của các cư dân địa phương, giúp họ dễ dàng hoà nhập, truyện thu Hồi giáo.Thứ ba, chính tính bao dung, mềm dẻo và thích nghi của Hồi giáo đối với các tín ngưỡng truyền thống địa phương đã khiến cho Hồi giáo mau chóng chiếm được ưu thế ở các nước Đông Nam Á. Trong quá trình Hồi giáo hóa, một số tổ tục, truyền thống địa phương lại góp phần đắc lực đẩy nhanh quá trình Hồi giáo hóa. Ví dụ như ở Inđônêsia, chế độ vương quyền và lòng trung thành với nhà vua trên quần đảo Mã lai đã khiến cho khi nhà vua cải đạo theo Hồi giáo thì nhất loạt dân chúng cũng mau chóng cải đạo theo.Thứ tư, khi Hồi giáo đến Ấn độ đã truyện thủ hào nghĩa thần bí của phương Đông. Chính yếu tố thần bí này đã trở thành điểm riêng biệt của Hồi giáo Đông Nam Á và làm cho Hồi giáo mau chóng có vị trí vững chắc ở nơi đây và dễ dàng xâm nhập vào các cư dân từ lâu đã sống trong ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Các cư dân Đông Nam Á bản địa dễ dàng truyện thu Hồi giáo và đây cũng là xứ sở hiếm hoi mà Hồi giáo không phải dùng bạo lực tiếng loại trừ những tôn giáo đã được thiết lập từ trước. Ngược lại, với kinh nghiệm song song tồn tại với các tôn giáo Micae ở Ấn Độ, Hồi giáo truyện tục biến đổi, uốn mình theo các phong tục truyền thống của địa phương. Thực ra, không phải khi đến Ấn Độ, Hồi giáo mới truyện thu các yếu tố thần bí của phương Đông, mà các yếu tố này đã có sẵn trong truyền thống văn hóa của các cư dân vùng bán đảo Arập - nơi phát sinh của Hồi giáo và chúng đi vào Hồi giáo một cách tự nhiên. Có mùa đảm, chính những yếu tố thần bí trọng Hồi giáo và gièm năng kết hợp với các tín ngưỡng địa phương đã đẩy nhanh quá trình cải giáo ở khu vực này.Thứ năm, việc sử scholars ngôn tính Malai tiếng truyền giáo cũng góp phần làm cho Hồi giáo phát triển nhanh trên quần đảo Malay - Inđônêxia, sau đó là khu vực Đông Nam Á. Người Hồi giáo đã chọn hiện Malai mà không chọn những ngôn tính Micae trong khu vực, bởi vì từ thời tiền Hồi giáo, hiện Malai đã được sử scholars rộng rãi và trở thành ngôn tính trung gian tiếng giao truyện , Đặc biệt là trong giao lưu buôn bán của khu vực. Khi Hồi giáo đến, hiện Malai đã đạt trình độ ngôn tính văn hóa tinh tế. Tiếng Malai được sử scholars hầu như trên khắp các về đồng Hồi giáo cho tới tận Campuchia và Việt Nam.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Khoảng thời gian từ lúc Hồi giáo xâm nhập until it become tôn giáo thống trị out of some nước Đông Nam Á does not dài, bởi vì Hồi giáo to Đông Nam Á as many thuận lợi.
Thứ nhất, thời kì Hồi giáo hoá Đông Nam Á trùng combined with thời kì khủng hoảng of the vương quốc cổ đại such as at Chămpa lục địa. Vào cuối thế kỉ XV, quốc gia Ấn Độ- Phật giáo Majapahit hùng mạnh trước kia đang bị suy thoái and tan rã. Các tiểu quốc thuộc đế quốc this tách from chính quyền trung ương, Gianh độc lập về kinh tế, chính trị, kéo theo sự crash of hệ tư tưởng- tôn giáo cũ. This lúc, hệ thống đẳng cấp of Ấn Độ giáo has become be lỗi thời, do not đáp ứng nhu cầu be developers of chế độ xã hội as sự phát triển nền kinh tế of commodity. Sự khủng hoảng of hệ tư tưởng Ấn Độ giáo tạo sự empty in niềm tin and a lỗ hổng to tôn giáo mới len vào, which is Hồi giáo- tôn giáo of the thương gia. If trước đây Hồi giáo ra đời góp phần thống nhất its bộ lạc trên bán đảo Arập into a đế quốc Hồi giáo vững mạnh, thì at this time Hồi giáo lại trở thành ngọn cờ of the tiểu quốc trên quần đảo Inđônêxia đấu tranh Gianh độc lập, phát triển kinh tế, chính trị quân sự and. Tấm gương tiêu biểu is Hồi giáo Malacca. Malacca become one trung tâm buôn bán Sầm uất from a làng đánh cá nghèo khó after Gianh độc lập. After that, Malacca not only is trung tâm buôn bán quốc tế quan trọng, mà còn be a trung tâm truyền giáo lớn nhất thời now. Các tiểu quốc khác coi Malacca is tấm gương, chỗ based về kinh tế and tinh thần their. Các tiểu quốc miền duyên hải after đi vào qui đạo buôn bán for Malacca dần bị lệ thuộc về tinh thần and the last become the following quốc gia Hồi giáo. Các tiểu quốc thấy rõ Hồi giáo is one vũ khí chính trị sắc bén, giúp tạo dựng one cộng đồng Hồi giáo lớn to execute ý đồ Bành Trương lãnh thổ and truyền bá văn hoá of mình,
Thứ hai, quá trình Hồi giáo hoá the vương quốc hải đảo phù hợp with too trình chuyển hướng kinh tế khu vực of. From a nền kinh tế tự cung, tự cấp các tiểu quốc has become nơi cung cấp hàng hoá quan trọng, nhất is hương liệu cho châu Âu, làm vậy was ready mở cửa cho its thương gia Hồi giáo ngoại quốc vào buôn bán and truyền giáo. During which, nguyên tắc bình đẳng, tính phóng khoáng, đơn giản in lễ nghi of Hồi giáo Cap phù hợp for tầng lớp thương nhân have been giới quí tộc Inđônêxia and Malaisia ​​tiếp đón. Additionally, other than khu vực Trung Đông, Hồi giáo to Đông Nam Á bằng con đường hoà bình, thông through cuộc tiếp xúc cá nhân, the cuộc hôn phối of thương nhân Hồi giáo to định cư, với con gái the tầng lớp quí tộc địa phương. Con đường cải giáo hoà bình and tự nhiên that much phù hợp for tâm lý of the cư dân địa phương, giúp they dễ dàng hoà nhập, tiếp thu Hồi giáo.
Thứ ba, chính tính bao dung, mềm dẻo and thích nghi of Hồi giáo đối with tín ngưỡng truyền thống địa phương was make cho Hồi giáo mau chóng occupy be ưu thế at its nước Đông Nam Á. Trọng quá trình Hồi giáo hoá, some of tập tục, truyền thống địa phương lại góp phần đắc lực đẩy nhanh quá trình Hồi giáo hoá. Ví dụ as at Inđônêsia, chế độ vương quyền and lòng trung thành with the nhà vua trên quần đảo Malay was make for while nhà vua cải đạo theo Hồi giáo thì nhất loat dân they are also mau chóng cải đạo theo.
Thứ tư, while Hồi giáo Ấn độ to have tiếp thu chủ nghĩa thần bí phương Đông of. Chính yếu tố thần bí have become điểm riêng biệt of Hồi giáo Đông Nam Á and make Hồi giáo mau chóng has vị trí vững chắc out nơi đây and dễ dàng xâm nhập into cư dân từ lâu was sống in affect the văn hoá Ấn Độ. Các cư dân Đông Nam Á bản địa dễ dàng tiếp thu Hồi giáo and also đây xứ sở hiếm hoi mà Hồi giáo not used bạo lực to exclude tôn giáo has been thiết lập từ trước. Ngược lại, với kinh nghiệm song song tồn tại with tôn giáo khác out Ấn Độ, Hồi giáo tiếp tục biến đổi, uốn mình theo the phong tục truyền thống of local. Thực ra, not a while to Ấn Độ, Hồi giáo mới tiếp thu the yếu tố thần bí of phương Đông, mà the element is already available in truyền thống văn hoá of the cư dân fields bán đảo Arập - nơi phát sinh of Hồi giáo and their đi vào Hồi giáo one cách tự nhiên. Có thể nói, chính those yếu tố thần bí in Hồi giáo and able to combine with tín ngưỡng địa phương was đẩy nhanh quá trình cải giáo out khu vực this.
Thứ năm, việc sử dụng ngôn ngữ Malai for truyền giáo that góp phần làm cho Hồi giáo phát triển nhanh trên quần đảo Malay- Inđônêxia, then is khu vực Đông Nam Á. Người Hồi giáo selection tiếng Malai which is the selected the language different in khu vực, bởi vì từ thời tiền Hồi giáo, tiếng Malai already in use rộng rai and become ngôn ngữ trung gian for giao tiếp, đặc biệt is in the giao lưu buôn bán of khu vực. Khi Hồi giáo đến, tiếng Malai was đạt trình độ ngôn ngữ văn hoá tinh tế. Tiếng Malai used hầu likewise khắp its cộng đồng Hồi giáo cho to tận Campuchia and Việt Nam.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: