Cuộc khảo sát của văn họcAlan S. Dunk (2002) điều tra trong phạm vi mà chất lượng sản phẩm và thực hiện kế toán môi trường tích cực ảnh hưởng đến hiệu suất chất lượng. Ông đề nghị rằng hội nhập của các vấn đề môi trường vào các quyết định tài chính quá trình bằng cách sử dụng môi trường kế toán sẽ góp phần vào việc tăng cường hiệu suất chất lượng và hiệu suất công ty như một toàn thể. Mặc dù, các tác giả theo thống kê đã chứng minh giả thuyết của ông rằng thực hiện môi trường kế toán và sản phẩm chất lượng tích cực ảnh hưởng đến hiệu suất chất lượng (R2 = 0.212 hoặc 21.2 phần trăm có thể được giải thích bởi mô hình này), ông không xác định các yếu tố khác có thể với hiệu suất chất lượng. Ngoài ra, tác giả đã không kiểm tra giả thuyết của mình tại các khu vực địa lý có thể hỗ trợ phương pháp tiếp cận tích hợp trong việc quản lý chất lượng sản phẩm và môi trường kế toán.D. Senthil Kumaran, Chang Ong, Reginald B.H. Tan, A.Y.C. Nee (2001), thảo luận về phân tích chi phí môi trường của chu kỳ cuộc sống mô hình (LCECA) bao gồm các chi phí sinh thái vào tổng chi phí của sản phẩm. Chi phí sinh thái có liên quan đến chi phí trực tiếp và gián tiếp của tác động môi trường gây ra bởi các sản phẩm trong các chu kỳ cuộc sống toàn bộ của nó. Các tác giả cũng mô tả như thế nào mô hình LCECA có thể sử dụng để identiíy các lựa chọn thay thế khả thi cho các chi phí hiệu quả, thân thiện với các bộ phận/sản phẩm. Điều này cố gắng để kết hợp các chi phí vào thực tế chu kỳ sống assessment (LCA), mà là một hệ thống đánh giá nhu cầu và cơ hội để giảm bớt gánh nặng về môi trường liên quan đến năng lượng và nguyên vật liệu sử dụng, và lượng phát thải các chất thải trong suốt vòng đời của sản phẩm, quá trình hoặc hoạt động. Ngoài ra, các tác giả cũng đã cho thấy về mô hình toán học của LCECA đó nhằm mục đích xác định mối tương quan của các môi trường khác nhau, chi phí với tổng chi phí. Mô hình này đã được chuyển đổi thành một mô hình LCECA tính toán, để so sánh các chi phí sinh thái của các lựa chọn thay thế. Giới hạn hiện tại của mô hình LCECA thảo luận của các tác giả đã chứng minh rằng các mô hình không phải là có thể cung cấp đầy đủ các kết quả có thể sẽ là kết quả của chênh lệch ở ước tính chi phí.Farhad Analoui và Azhdar Karami (2002), khám phá về các giám đốc điều hành sĩ quan (CEO) nhận thức của các chức năng quét môi trường liên quan đến các công ty hoạt động trong lĩnh vực DNNVV trong bối cảnh công ty điện và điện tử Anh. Các tác giả phân tách theo giới DNN & v ngành vào thành phần ba, vi doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp vừa. Không ngạc nhiên, nó là rộng rãi được xem như là bước đầu tiên trong quá trình quản trị chiến lược. Chúng tôi kết luận là có một mối quan hệ quan trọng giữa tăng chức năng quét môi trường của các công ty, và sự thành công của công ty hoạt động trong các doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ. Điểm yếu của bài viết này là các tác giả đã không bao gồm quản lý môi trường như là một phần của môi trường học tập thông số quét cho CEO để xem xét trong việc quản lý của công ty.Gluch, Pernilla (2000), có hai mục tiêu trong bài báo này, đó là; để đánh giá việc sử dụng các chi phí của các sai sót về môi trường (CEE) như một công cụ kế toán quản lý môi trường, và giải thích lý thuyết tại sao công cụ 'mới', môi trường, chẳng hạn như CEE đang liên tục được phát triển. Ông đã sử dụng khái niệm CEE để đo lường những hậu quả môi trường tài chính, gây ra bởi các ngành công nghiệp xây dựng ở Thụy Điển. CEE là được sử dụng để identiíy các lỗi và nguyên nhân liên quan và các chi phí cho các môi trường nơi mà tác giả đã xác định lỗi 243 và 78 loại nguyên nhân khác nhau. CEE kết thúc như một công cụ mạnh mẽ để đo lường các dẫn xuất tiêu cực và sau đó diện tích cải tiến có thể được xác định. Trong bài này, các hạn chế này là tập trung CEE trên chi phí và không lợi ích, ngụ ý rằng CEE có kém khả năng mở rộng như một công cụ hỗ trợ quyết định về môi trường.Gregory Theyel (2000) khám phá cho dù có nhận thấy sự khác biệt trong môi trường sáng tạo và hiệu suất của các công ty hóa chất Hoa Kỳ có thể được giải thích bởi sự khác biệt trong thực tiễn quản lý và đặc điểm của các công ty. Sử dụng dữ liệu từ một cuộc khảo sát quốc gia, công ty thăm, và điện thoại phỏng vấn, tác giả đánh giá pervasiveness của việc áp dụng quản lý môi trường thực tiễn trong hai lĩnh vực quan trọng của công nghiệp hóa chất. Hai lĩnh vực này, cụ thể là nhựa và nhựa và mực in nhà máy sản xuất được xác định là hai trong top 10 gây ô nhiễm nhất ngành theo khối lượng và đầu hai bởi carcinogenicity. Giới hạn trong bài viết này là rằng các tác giả tập trung vào môi trường sáng tạo và hiệu suất và không phải trên môi trường bền vững theo thời gian.
đang được dịch, vui lòng đợi..