2. văn học reviewTrước khi sự sụp đổ của Lehman Brothers vào tháng 9 năm 2008, trong nước tín dụng sẵn có đã là thường identified như là một chỉ số cơ bản của chính phát triển (Barajas et al., 2009). Văn học phát triển bây giờ cách kiểm tra các yếu tố quyết định tín dụng trong nước, đặc biệt là trong EMEs. Ví dụ, Takats (2010) tập trung vào các tín dụng trong nước trong một khuôn khổ bảng điều khiển của 21 EMEs cho giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2009, bằng cách sử dụng sự biến động bình thường hàng quý của S & P 500 index là yếu tố cung cấp toàn cầu. Bằng cách sử dụng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) như là yếu tố nhu cầu quan trọng nhất trong phân tích của ông, ông kết luận rằng cả hai nhu cầu và cung cấp các yếu tố góp phần vào sự suy giảm trong cho vay qua biên giới để EMEs nhưng rằng tác động của những cú sốc cung cấp đã mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, các loại hai yếu tố xuất hiện để có thêm cân bằng hiệu ứng trước khi cuộc Đại suy thoái toàn cầu trong năm 2008-09. Bakker và Gulde (2010) chỉ ra rằng bên ngoàiyếu tố, chẳng hạn như "may mắn," là nguyên nhân chính của chu kỳ bùng nổ-bust tín dụng trong nước ở châu Âu mớiUnion (EU) countries over the past decade. In their estimation, higher inflation caused real interest rates to fall, which encouraged growth of domestic credit. Aisen and Franken (2010) use data from 80 countries to investigate the main determinants of domestic credit expansion during the great global recession, finding that the boom before the recession and the rapid slowdown in economic activity among major trading partners during the recession were the main determinants of domestic credit levels in EMEs and that the roles of counter-cyclical monetary policy and domestic liquidity were also important. Kamil and Rai (2010) consider external and internal sources of domestic credit growth in 13 LAC borrower countries and 14 non-LAC lender countries during the global recession, mainly concluding that the countries reliant on foreign funding for domestic credit growth suffered more heavily from the great global recession than those that were less reliant. Guo and Stepanyan (2011) examine the determinants of domestic credit in EMEs during the last decade, covering both the pre-crisis and post-crisis periods. They find that domestic funding and foreign funding were among the most important determinants of domestic credit. They also indicate that stronger economic growth, higher inflation and loose domestic and global monetary policies tended to increase domestic credit availability in EMEs. Borio et al. (2011) investigate volumes of global credit in major currencies and their contribution to overall credit growth in particular countries. They emphasize the role of external factors on domestic credit growth and draw policy implications with respect to the associated risks, mainly suggesting the importance of international coordination. Similar empirical findings are obtained by Avdjiev et al. (2012) for several developed and developing Asian economies. Similarly, Elekdag and Wu (2011) examine 99 credit booms and conclude that loose monetary policy and global liquidity conditions are the main drivers of real domestic credit growth across EMEs. Mendoza and Terrones (2012) focus on 61 developed and developing countries in the period from 1960 tonăm 2010, xác định 70 tín dụng bùng nổ sự kiện, một nửa trong số họ trong EMEs. Họ nhiều rằng có một mối quan hệ có hệ thống và mạnh mẽ giữa bùng nổ tín dụng trong nước (hoặc chu kỳ bùng nổ-phá sản) và tăng vốn inflows, tăng giá nhà và vốn chủ sở hữu, tăng hoạt động kinh tế, tỷ giá hối đoái thực sự đánh giá cao, và deficits ngày càng tăng trong sự cân bằng bên ngoài về hàng hoá và dịch vụ và tài khoản hiện tại cân bằng.Mặt khác, thủ phủ flows có thể cũng influence tín dụng trong nước cấp trong EMEs. Trong các tài liệu, đó là bằng chứng thực nghiệm rằng inflows vốn ròng trong nền kinh tế thị trường mới nổi có thể tạo ra bùng nổ tín dụng trong nước, đặc biệt là đưa ra một hệ thống chính trong nước dễ vỡ. Ví dụ, Mendoza và Terrones (2008) nhiều mà hầu hết các cuộc khủng hoảng chính và tín dụng trong nước bùng nổ ở EMEs đã xảy ra là kết quả của quá nhiều vốn đầu tư inflows. Một nghiên cứu của các quỹ quốc tế tiền tệ (IMF) (2011) điều tra19 phát triển quốc gia và 28 EMEs cho giai đoạn 1960-2010, kết luận rằng vốn inflows significantly dự đoán bùng nổ tín dụng trong nước. Ostry et al. (2012), bằng cách sử dụng specific definitions của cuộc khủng hoảng và bùng nổ tín dụng trong nước trong EMEs trong một khuôn khổ dữ liệu bảng điều khiển bao gồm giai đoạn từ năm 1995 đến 2008, kết luận rằng tín dụng trong nước bùng nổ đã được kết hợp với vốn inflow dâng. Lane và McQuade (2013) điều tra interrelationship giữa tăng trưởng tín dụng trong nước và quốc tế vốn flows trong giai đoạn năm 1993 đến năm 2008 tại 29 quốc gia châu Âu, tập trung vào giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2008 là một khoảng thời gian quan sát sự bùng nổ tín dụng trong nước. Họ nhiều một mối quan hệ mạnh mẽ không đối xứng giữa tăng trưởng tín dụng trong nước, flows net nợ, và vốn chủ sở hữu net flows, kết luận rằng kinh tế vĩ mô và chính biến có thể ảnh hưởng đến cả hai thực tế cung và cầu
đang được dịch, vui lòng đợi..