2.The bất cập, khó khăn và hạn chế gian lận thuế qua giá trị của thuế trong ngày hôm nay Việt Nam Thực tế cho thấy hầu hết các giá được chấp nhận trong các tờ khai hải quan hiện nay vẫn chưa phản ánh đúng giá trị của các giao dịch của lô hàng nhập khẩu, công tác chống gian lận thông qua thuế giá trị ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, khó khăn. Cụ thể là: Thứ nhất, các điều kiện kinh tế và xã hội ở Việt Nam hiện nay cũng như ý thức của người dân về nghĩa vụ thuế chưa thực sự đảm bảo đủ "trưởng thành" để áp dụng thuế giá trị xác định theo giá trị của giao dịch. Thứ hai, các hải thẩm quyền không có đủ cơ sở để bác bỏ giá trị của doanh nghiệp do thiếu thông tin hoặc thiếu thông tin không đủ độ tin cậy có sức thuyết phục. Thứ ba: mức độ, năng lực của một số cán bộ công chức về hải quan kiểm tra tờ khai thuế giá trị không đáp ứng được các yêu cầu đặt ra, do sự thiếu chuyên môn về thuế, giá trị của sự bình thường, hình thức thanh toán quốc tế ... Thứ tư: các bài hướng dẫn văn bản thực hiện việc xác định trị giá tính thuế và đồng bộ, hệ thống thiết bị cơ sở hạ tầng cho việc quản lý thuế giá trị vẫn còn nghèo nàn, các ứng dụng của công nghệ thông tin vào quản lý thuế giá trị chưa thực sự hiệu quả. ở nhiều chi nhánh, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật là gần có được nêu ra hoặc nếu bạn không đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn. Thứ năm: việc trao đổi thông tin trong ngành hải quan vẫn chưa đáp ứng mau lẹ máy tính, thông suốt, các mối quan hệ giữa hải quan Việt Nam với các hải quan của các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn chưa được thiết lập một cách hiệu quả. Vì vậy, những hạn chế lớn trong việc trao đổi thông tin về giá trị của hàng hóa, xuất xứ trong khi tình hình buôn lậu, gian lận thương mại ngày càng tinh vi, phức tạp trên nhiều khía cạnh và sắc thái mới. Thứ sáu: giá trị công việc của tư vấn phần lớn trên truyền hình tính chất, hình thức, hiệu quả consultations.Although sự đánh giá công việc tư vấn được coi là một biện pháp hiệu quả trong việc ngăn chặn tình trạng gian lận nhưng đánh giá của Tổ chức tư vấn giá cả vẫn còn sơ sài, chủ yếu dựa trên các tài liệu mẫu do Tổng cục Hải quan hướng dẫn, không được để làm nổi bật sự nghi ngờ của cơ quan hải quan đối với giá trị của báo cáo kinh doanh với, các căn cứ để từ chối giá trị của Tuyên bố là vẫn còn quá nhiều về những biến dạng trên hồ sơ hoặc sự chấp thuận của doanh nghiệp là có một mối quan hệ đặc biệt nhưng không kê khai hoặc kê các tài liệu trong hồ sơ không phù hợp với nhau chưa chỉ ra những mâu thuẫn trong tờ khai trị giá Tuy nhiên, việc sử dụng đầy đủ các quyền bỏ giá trị của tờ khai hải quan khi có đủ kinh doanh nhưng cơ sở không approved.Therefore lên án các giá trị sau tư vấn cấu tỷ lệ thấp, chủ yếu là chấp nhận các giá trị đã được công bố (chiếm 60-70% của số lượng tờ khai tham vấn). Cuộc bầu cử duy nhất, vào năm 2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tham vấn 5537 tờ khai, kết quả sa thải 1.722 tờ khai, 31,10% tỷ lệ; Hải 373TK / 3086TK, bác bỏ tỷ lệ bắt giữ 12,09%; Hà Nội từ chối 50TK / 370TK, tăng 13,51 phần trăm. Công tác thu thuế sau khi tham khảo ý kiến vẫn chưa có hiệu quả. Ví dụ, trong tổng số điều chỉnh thuế sau khi tham khảo ý kiến của Cục hải quan lang son là như nhau nhưng số thuế thực tế 9.528.227.000.00 nộp vào ngân sách nhà nước là 1.573.586.000.00 (16,51%); kế toán hoặc trong các Sở số thuế hải quan 501.768.319.00/1.283.641.615.00 Hà Nội nộp: sản (39,09%) chiếm. Đây là quá con số nhỏ so với tổng thu thuế sau khi tham khảo ý kiến. Thứ bảy: Việc thiếu các dữ liệu giá được cập nhật thường xuyên, chưa trở thành một hoạt động cần thiết trong quá trình quản lý dữ liệu. Một yêu cầu đặt ra trong quản lý danh mục giá quá trình dữ liệu được cập nhật thường xuyên các dữ liệu vào các đánh giá-22 hệ thống GTT Tổng cục hải quan để có cơ sở để tham khảo, so sánh giá cả. Song trong thực tế công việc này ít chú ý, dẫn đến nghèo thông tin, trạng thái của thông tin so với những gì đang xảy ra trên thị trường sống động của các hệ thống giá cả, GTT-22. Do đó làm cản trở việc hiệu quả để nhỏ không xác định cũng như công việc của tư vấn thuế giá trị thứ tám: nguồn thông tin phục vụ cho việc kiểm tra giá tính thuế là hạn chế, không phù hợp với các request.At trình bày các dữ liệu được cập nhật tại Văn phòng là rất lớn nhưng các thiết bị vẫn chưa khai thác và quản lý các yêu cầu khi tra cứu dữ liệu GTT-22 trên máy tính. Giữa GTT-22 chương trình quản lý dữ liệu và việc xuất khẩu, nhập khẩu các tính năng chưa được gắn kết với nhau một cách hiệu quả các công việc xác định và kiểm tra giá chưa cao. Ví dụ, việc xác định hàng hóa tại lươn tên chương trình đa chức năng chỉ cho phép tối đa 80 ký tự mô tả, do vậy không có được thông tin đầy đủ nếu tên hàng quá lâu. Điều này cũng hạn chế yêu cầu phải mô tả chi tiết tên hàng hóa để cập nhật trên GTT-22, ảnh hưởng đến việc thu hồi hàng hoá khi xác định giá trị. Các thông tin nhập khẩu từ một đĩa mềm được cung cấp bởi các doanh nghiệp trên GTT-22 chương trình không có cảnh báo hệ thống đồng bộ hóa dữ liệu giữa các chương trình chức năng với GTT-22. Thứ chín:. Công tác kiểm tra hải quan sau đây chưa thực sự hiệu quả Một trong những yếu tố quan trọng để tăng cường và nâng cao hiệu quả của công việc gian lận thuế qua giá trị của việc tính thuế là việc kiểm tra hải quan sau đây. Mặc dù công việc này đang theo Cục Kiểm tra hải quan được tôn trọng và thực hiện tích cực, nhưng thời gian vẫn chưa phát huy những gì chúng ta được kỳ vọng và mong đợi nó. Hồ sơ công tác tại Cục đã không được coi trọng đúng mức, công tác phối hợp cung cấp thông tin liên quan đến các vi phạm của các bảng hiệu kinh doanh còn hạn chế, vì vậy tình trạng gian lận thuế qua giá trị của thuế vẫn chưa được đẩy lùi.
đang được dịch, vui lòng đợi..