Giáo dục ở Việt Nam
HUỲNH THANH TRIỆU
Phó Chủ tịch
Đại học thành phố Hồ Chí Minh Sư phạm
Sinh 10 tháng 5 - 1953 tại Cà Mau (Việt Nam)
nghiên cứu sau đại học tại Pyatigorsk Viện Ngoại ngữ (tiếng Pháp và tiếng Nga) - Nga
DEA và Tiến sĩ tại trường Đại học Rouen - Pháp
Luận văn: Sự phức tạp cú pháp của Pháp
Từ 1977-2001: Giáo viên của Vụ Pháp
Từ năm 2001 đến năm 2004: Giám đốc Sở Pháp
Từ năm 2005: Phó Chủ tịch thành phố HCM Sư phạm
Summary
Cái gọi là nguyên tắc hấp dẫn «hàng ngàn người phải nghĩ như một người »nghiêng để bắt buộc các
cộng đồng vô điều kiện tuân theo và thực hành các nguyên tắc. Trong lĩnh vực giáo dục và sư phạm, các
estabishment và tôn trọng cho một tiêu chuẩn duy nhất như vậy không phải lúc nào cũng mang lại kết quả tích cực, đặc biệt là
khi nguyên tắc tiêu chuẩn này được sử dụng trong một thời gian dài. Chỉ vì cả giáo dục và sư phạm
bao hàm sự sáng tạo, khoa học và không bao giờ vẫn không thay đổi.
Được khích lệ bởi công luận, các quan chức chịu trách nhiệm về giáo dục ở Việt Nam đang tập trung của họ
nỗ lực về kiểm tra quá trình làm việc đã được thực hành cho đến nay ở nước ther. Những nỗ lực nhằm
đạt được những thay đổi đối với hệ thống giáo dục tích cực và hiệu quả.
Để có được kết quả yêu cầu, điều quan trọng là cho Việt để xác định sự khác biệt giữa các
truyền thống dân tộc và tư duy khoa học. Nói cách khác, họ phải quyết định việc là để được rời đi
và những người cần được bảo tồn.
Tinh thần quốc gia và tình yêu của một quốc gia là vô giá. Thật vậy, họ là những nhân tố đẩy mạnh các
tiến bộ của cộng đồng. Trong khoa học, có vẻ như là năng lực tư duy không giới hạn trong khi thực hành luôn luôn là
cần thiết. Họ cho phép con người mới biết chính xác hơn về thế giới xung quanh để có phù hợp
các biện pháp để đối phó với vấn đề này có thể xảy ra.
Tôi xin chân thành nghĩ rằng một phi công dự án của hệ thống giáo dục nên nắm lấy hai yếu tố nói trên.
Giáo dục ở Việt Nam
Năm 1986 , mười một năm sau khi kết thúc chiến tranh và thống nhất đất nước Việt Nam, các "Doimoi Chính sách" Kiến nghị
đảng cộng sản gây ra thời kỳ phát triển kinh tế.
Song song với việc tự do hóa xảy ra trong ngành công nghiệp và thương mại, giáo dục Việt Nam cũng
tự thẩm quyền dần dần giành được. Đầu tiên, điều này thể hiện bản thân trong sự xuất hiện của các trường tư có thể
hoạt động với quy hoạch về cơ bản độc lập về tài chính. Tiềm ẩn sự ra đời của các trường tư thục được các
mục tiêu của chuyển một potion của gánh nặng cho các nhiệm vụ giáo dục đã được áp đặt trên công
trường để khu vực tư nhân giảm chi tiêu nhà nước cho hoạt động giáo dục.
Tuy nhiên, tôi tin rằng sự độc lập từ góc độ tài chính này là có thể sự thay đổi duy nhất ở
cấp độ cơ bản của giáo dục mà đã được nhìn thấy trong nhiều năm sau khi bắt đầu cải cách. Như trong quá khứ,
tất cả các hoạt động khác phải tuân thủ các quy tắc và quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong các chương trình giáo dục đặc biệt và giờ phải thực hiện theo các quy tắc và Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định. Trong một thời gian dài (phải đến nay), các chương trình giáo dục từ tiểu học thông qua
giáo dục trung học, không thể cải tạo, và là bắt buộc bất chấp những lời chỉ trích của nó là quá
nặng nề cho học sinh. Đây là một môi trường mà giáo viên không thể theo đuổi lợi ích cá nhân hoặc
tập thể dục cá nhân. Điều này là bởi vì các quy tắc và quy định giáo dục đã được thành lập dựa trên tiêu chuẩn
tài liệu giảng dạy và đào tạo. Trong bối cảnh giao lưu quốc tế tiến triển, nó đã trở thành
hiển nhiên rằng giáo dục Việt rất khác so với các nền giáo dục của các nước khác. Hơn nữa,
có những cuộc gọi từ khắp nơi trong giáo dục Việt Nam phải "Kể từ khi nó đã tồn tại từ thời cổ đại, chúng ta hãy
thay đổi những gì không sản xuất các kết quả mong muốn." Này, tuy nhiên, không có vấn đề đơn giản.
Lịch sử Việt Nam là phi thường được phân loại theo vô số những cuộc chiến tranh qua hàng ngàn
năm. Ngay cả trong thời hiện đại, năm 1975 là không chỉ là kết thúc của cuộc xâm lược của Mỹ nhưng cuối hai thời đại của
sự thống trị đó đã tiếp tục trong 120 năm. Những kỷ nguyên thống trị đã được kích hoạt bởi người Pháp
hệ thống thuộc địa.
Nó được cho rằng cuộc chiến để lại hậu thế với (không có gì nhưng) sự phá hủy quá mức của con người và tài sản, và
ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế quốc gia. Và, có hiệu lực sau chiến tranh trên tinh thần và tâm lý người dân
cũng đã được đề cập. Tuy nhiên, không có nhiều nói về sự ảnh hưởng của thời gian chiến tranh ý thức hệ về sự
tái thiết kế và xây dựng lại đất nước. Tôi cảm thấy rằng đến một mức độ nhất định trường hợp này được áp dụng cho Việt
xã hội.
Sự đoàn kết của các dân tộc là một yếu tố quyết định trong chiến tranh. Triết lý là "Without đoàn kết
của các dân tộc không có chiến thắng." Các bạn còn chiến tranh tiếp diễn, nhiều người đã phải sắp xếp theo cách của họ
sống và suy nghĩ với triết lý này. Các nguyên tắc của "vạn là một" qua hàng ngàn năm
đã đem lại cho Việt sức mạnh để chiến thắng trong cuộc chiến tranh lặp đi lặp lại với kẻ thù của họ. Đồng thời,
nếu như theo một số nguyên tắc, ngay cả với chiến tranh kết thúc Việt không thể dễ dàng chấp nhận cá tính hoặc
độc lập với thời gian trôi qua chỉ phục vụ cho thép hệ tư tưởng này trong trái tim của người Việt. Đối với
một vài thập kỷ sau chiến tranh, nó được coi như là long trọng bảo vệ các nguyên tắc và thông
lệ trong hoạt động giáo dục Việt Nam là hành vi lý tưởng của các nhà giáo dục và các nhà lãnh đạo. Và,
bằng cách nào đó, ngay cả khi mối quan tâm phát sinh như sự bất cập của hệ thống giáo dục, đã được trình bày những
dè dặt và thận trọng. Điều này có thể là Việt Nam không có niềm tin vào giá trị của họ
ý kiến, hoặc nó có thể là họ không muốn chịu trách nhiệm cho làm gián đoạn sự hòa hợp trong một thiết lập
cấu trúc. Hiện tượng này không chỉ xảy ra ở giáo dục tiểu học và trung học, nhưng cũng trong
giáo dục đại học. Đây là lý do mà giáo dục Việt Nam có một thời gian dài thiếu cần
linh hoạt và đã được thực tế. Điều quan trọng là phải hiểu rằng cứng nhắc trong giáo dục là không có cách nào một chất vô hại. Thay vào đó, rằng vôi hóa là bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng. Giáo dục phải được gắn bó chặt chẽ gắn liền với cuộc sống. Giáo dục phải hướng dẫn các hoạt động trí tuệ của dân tộc, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, và như vậy phải có chức năng vị ngữ. Có thể nói rằng, "nếu cuộc sống thay đổi, sau đó giáo dục cũng phải thay đổi." Và, nó cũng có thể nói rằng "thay đổi giáo dục để thay đổi cuộc sống." Nếu giáo dục không phản ánh các yêu cầu của cuộc sống trong một thời kỳ đặc biệt, sau đó giáo dục có không thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đã đề ra, và do đó, khá đơn giản, trở thành nguyên nhân của sự trì trệ (trong xã hội). Sự mâu thuẫn trong giáo dục giữa truyền thống và linh hoạt là, tôi tin rằng, bất kể dưới hình thức giả, một vấn đề đối với xã hội, tất cả các nước và tất cả các nền văn hóa. Từ hàng ngàn năm trước đây giáo dục đã là một nỗ lực nhằm hài hòa giữa cái cũ và cái mới. Đó là, có thể nói rằng đây đã là một đề tài cũ. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng mâu thuẫn này trong giáo dục Việt Nam là nghiêm trọng, và rằng các giải pháp được áp dụng nên được sử dụng để xóa bỏ những. Trong một thế giới mà khoa học và phát triển công nghệ đang tiến triển nhanh chóng, và nơi phản ứng muộn để toàn cầu hóa là rất nhiều trừng phạt, vấn đề là bao giờ ép. Giáo viên Việt Nam, những người đã được tiếp cận với giáo dục tiên tiến với các cơ hội để tiếp tục sự hiểu biết (giáo dục) và tất cả các nhà quản lý giáo dục ngay cả bây giờ, biểu hiện lo âu về các dạng hoạt động đó phải được thực hành hàng ngày. Điều này là bởi vì họ cảm thấy những loại hoạt động không luôn luôn cung cấp những kết quả mong đợi, và họ biết rất rõ là đã tụt lại phía sau so với các đồng nghiệp ở các nước khác. Mỗi lần họ nhớ lại rằng họ nắm trong tay thế hệ chịu trách nhiệm về tương lai của dân tộc, sự e ngại đề cập trước khung dệt lớn. Trong bối cảnh này, những người mà đặt trái tim và linh hồn của họ vào giáo dục đã áp dụng một chính sách làm việc chăm chỉ hoạt động giáo dục mà ra kết quả lớn nhất. Mặt khác, nơi mà các quy tắc và quy định cho giáo dục là không linh hoạt và phương pháp thay thế là không được phép, chúng tôi cùng nhau quyết định "để kiên nhẫn chờ đợi cơ hội phải." Đó là, ở Việt Nam một lần một vấn đề giáo dục đã được chính thức đưa lên, toàn bộ của xã hội phát triển một mối quan tâm, và nó được điều tra và giải pháp được tìm. May mắn thay, cùng với lập trường chủ động từ nước ngoài, trong nền dân chủ Việt Nam đang dần tăng lên. Và thông qua đó, người tham gia vào giáo dục và nếu không được nhiệt tình tham gia các cuộc tranh luận về giáo dục. Trong những năm gần đây ở Việt Nam các phương tiện truyền thông đại chúng đã trở thành một diễn đàn tranh luận cho tất cả mọi người có một quan tâm đến vấn đề giáo dục. Nó có thể cho phép các quan điểm của giáo sư đại học và các nhà nghiên cứu, các nhà lãnh đạo giáo dục, giáo viên, nhà xã hội học, quản lý giáo dục, người giám hộ, và sinh viên trong diễn đàn này. Hơn nữa, nó cũng có thể để có được quan điểm của các nhà nghiên cứu nước ngoài và chuyên gia, thông qua quan sát giai đoạn Doimoi tại Việt Nam, đã quyết định rằng họ muốn đóng góp vào sự phát triển của giáo dục ở nước này trong diễn đàn này. Các vấn đề thảo luận nhiều nhất bao gồm việc giảm tải thường xuyên các chương trình giáo dục, tăng cường các môn tự chọn, đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng thực tế của nội dung giảng dạy, tư duy độc lập, kích thích tinh thần, tôn trọng cá tính của học viên, xóa nhấn mạnh vào tình trạng bất ổn điểm, đơn giản hóa các đánh giá quy chế thi, và sự thay đổi trong cách học sinh được chấp nhận vào trường đại học. Trong thời gian này các bộ trưởng mới được bổ nhiệm cho Giáo dục và Đào tạo đã tràn ngập với những gợi ý từ những người có ý kiến của quần chúng nói chung, muốn đóng góp để thành lập edu
đang được dịch, vui lòng đợi..
