Ba nguyên tắc phổ biến Nguyên tắc đầu tiên là chính phủ liên bang chỉ  dịch - Ba nguyên tắc phổ biến Nguyên tắc đầu tiên là chính phủ liên bang chỉ  Việt làm thế nào để nói

Ba nguyên tắc phổ biến Nguyên tắc đ

Ba nguyên tắc phổ biến

Nguyên tắc đầu tiên là chính phủ liên bang chỉ đóng một vai trò rất hạn chế. Nước Mỹ không có một kế hoạch từ trung ương dành cho các trường ĐH. Họ không coi giảng viên, giáo sư ĐH là các viên chức nhà nước, như thường thấy ở các nước khác. Thay vì vậy, các trường ĐH có hàng loạt các nguồn tài trợ, từ chính phủ liên bang cho đến các tổ chức tôn giáo, từ các sinh viên, cựu sinh viên rủng rỉnh tiền bạc, cho đến các nhà tài trợ hào phóng như Ezra Cornell, Cornelius Vanderbilt, Johns Hopkins và John D.Rockefeller. Truyền thống cho và nhận tài trợ này vẫn tồn tại cho đến ngày nay: trong năm tài chính 2004 các nhà tài trợ đã đổ vào các ĐH ở Mỹ 24,4 tỉ đô la.

Sự quản lý giới hạn của nhà nước ở đây không có nghĩa là nhà nước quản lý một cách dửng dưng, trên hết là quản lý vĩ mô. Chính phủ liên bang đã nhiều lần bắt tay can thiệp vào các ĐH, chẳng hạn như bộ luật Morrill về việc cấp đất đai ban hành năm 1862 đã tạo ra các trường ĐH được cấp đất để xây dựng. Nhà nước rót tiền vào các trường cao đẳng cộng đồng. Dự luật GI năm 1946 đã mang các trường ĐH đến tầm tay của mọi người. Chính phủ liên bang vẫn tiếp tục rót hàng tỉ đô la vào hoạt động khoa học và nghiên cứu.

Nguyên tắc thứ hai là cạnh tranh. Các trường đại học cạnh tranh với nhau về mọi thứ, từ sinh viên cho đến giáo sư và cả các ngôi sao bóng rổ. Các giáo sư cạnh tranh để dành được các khoản tài trợ cho nghiên cứu từ phía chính quyền. Các sinh viên thì cạnh tranh về các khoản học bổng cao đẳng, đại học hoặc các học bổng nghiên cứu sinh. Điều này có nghĩa là các học viện thành công không thể nghỉ ngơi (ngủ quên) trong vinh quang.

Nguyên tắc thứ ba là phải hữu dụng. Ở ĐH Wisconsin: "Khi cây củ cải của bất kỳ nông dân nào có vấn đề, họ gửi ngay một giáo sư đến để điều tra sự cố một cách rất khoa học". Henry SteeleCommager, một nhà sử học người Mỹ thế kỷ 20, lưu ý rằng một người Mỹ bình thường ở thế kỷ 19 đã coi giáo dục như niềm tin tín ngưỡng của họ miễn là nó "thiết thực và sinh lời". Sự nhấn mạnh hai chữ "sinh lời" giữ nguyên nét đặc trưng nổi bật của nền văn hóa ĐH Mỹ. Người Mỹ đã tiên phong trong nghệ thuật kết nối giữa giới học giả và công nghiệp. Các đại học ở Mỹ mỗi năm kiếm được hơn một tỉ đô la nhờ vào tiền bản quyền phát minh và phí nhượng quyền. Hơn 170 trường ĐH có các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh và hàng tá các trường khác có các quỹ đầu tư của riêng họ.

Sự đa dạng của hệ thống

Sự đa dạng của hệ thống ĐH Mỹ cho phép họ cung cấp một hệ thống phong phú những loại học viện khác nhau. Chỉ khoảng 100 trong tổng số 3.200 ĐH của Mỹ là ĐH nghiên cứu. Các trường ĐH công lập đầu ngành như Michigan, Texas và Berkeley, California đã cung cấp một nền giáo dục tầm cỡ thế giới với một cái giá gần như cho không. Đa phần còn lại là các trường cao đẳng cộng đồng, có các nghiên cứu nhỏ và chỉ cung cấp các khóa học dài hai năm. Tuy nhiên, những sinh viên có khả năng vẫn có thể chuyển tiếp từ các trường cao đẳng hai năm sang một trường ĐH nghiên cứu có uy tín.

Các trường tư thục với học phí cao ngất ngưởng, cũng có chính sách dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn như ĐH Harvard hiện giảng dạy miễn phí cho những sinh viên mà thu nhập của gia đình ít hơn 40.000 đô mỗi năm, và giảm học phí đáng kể cho các sinh viên đến từ các gia đình có thu nhập vào khoảng 40.000 đến 60.000 mỗi năm. Năm rồi, cũng có một số sinh viên Việt Nam được nhận thẳng vào Harvard, Brown, Princeton, Yale với học bổng toàn phần. Các trường ĐH hàng đầu khác cũng có chính sách ưu tiên cho các vận động viên, những người nộp đơn sớm và con cái của các cựu sinh viên của trường.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Ba nguyên tắc phổ biến Nguyên tắc đầu tiên là chính phủ liên bang chỉ Third một vai trò rất hạn chế. Nước Mỹ không có một kế hoạch từ trung ương dành cho các trường ĐH. Họ không coi giảng viên, giáo sự ĐH là các viên chức nhà nước, như thường thấy ở các nước ông. Thay vì vậy, các trường ĐH có hàng loạt các nguồn tài trợ, từ chính phủ liên bang cho đến các tổ chức tôn giáo, từ các sinh viên, cựu sinh viên rủng rỉnh tiền bạc, cho đến các nhà tài trợ hào phóng như Ezra Cornell, Cornelius Vanderbilt, Johns Hopkins và John D.Rockefeller. Truyền thống cho và nhận tài trợ này vẫn tồn tại cho đến ngày nay: trong năm tài chính 2004 các nhà tài trợ đã đổ vào các ĐH ở Mỹ 24,4 tỉ đô la. Sự quản lý giới hạn của nhà nước ở đây không có nghĩa là nhà nước quản lý một cách dửng dưng, trên hết là quản lý vĩ mô. Chính phủ liên bang đã nhiều lần bắt tay có thể thiệp vào các ĐH, chẳng hạn như bộ luật Morrill về việc cấp đất đai ban hành năm 1862 đã chức ra các trường ĐH được cấp đất tiếng xây dựng. Nhà nước rót tiền vào các trường cao đẳng về đồng. Dự luật GI năm 1946 đã mang các trường ĐH đến tầm tay của mọi người. Chính phủ liên bang vẫn truyện tục rót hàng tỉ đô la vào hoạt động khoa học và nghiên cứu. Nguyên tắc thứ hai là cạnh tranh. Các trường đại học cạnh tranh với nội về mọi thứ, từ sinh viên cho đến giáo sự và đoàn các ngôi sao bóng rổ. Các giáo sự cạnh tranh tiếng dành được các khoản tài trợ cho nghiên cứu từ phía chính quyền. Các sinh viên thì cạnh tranh về các khoản học bổng cao đẳng, đại học hoặc các học bổng nghiên cứu sinh. Điều này có nghĩa là các học viện thành công không mùa nghỉ ngơi (ngủ quên) trong vinh quang. Nguyên tắc thứ ba là phải hữu Scholars. Ở ĐH Wisconsin: "Khi cây củ cải của bất kỳ nông dân nào có vấn đề, họ gửi ngay một giáo sự đến tiếng ban tra sự cố một cách rất khoa học". Henry SteeleCommager, một nhà sử học người Mỹ thế kỷ 20, lưu ý rằng một người Mỹ bình thường ở thế kỷ 19 đã coi giáo dục như niềm tin tín ngưỡng của họ miễn là nó "thiết thực và sinh hào". Sự nhấn mạnh hai chữ "sinh hào" giữ nguyên nét đặc trưng nổi bật của nền văn hóa ĐH Mỹ. Người Mỹ đã tiên phong trong nghệ thuật kết nối giữa giới học giả và công nghiệp. Các đại học ở Mỹ mỗi năm kiếm được hơn một tỉ đô la nhờ vào tiền bản quyền phát minh và phí nhượng quyền. Hơn 170 trường ĐH có các tổ chức hỗ trợ khuyến nghiệp kinh doanh và hàng tá các trường Micae có các quỹ đầu tư của riêng họ. Sự đa dạng của hay thống Sự đa dạng của hay thống ĐH Mỹ cho phép họ cung cấp một hay thống phong phú những loại học viện ông nội. Chỉ khoảng 100 trong tổng số 3.200 ĐH của Mỹ là ĐH nghiên cứu. Các trường ĐH công lập đầu ngành như Michigan, Texas và Berkeley, California đã cung cấp một nền giáo dục tầm cỡ thế giới với một cái giá gần như cho không. Đa phần còn lại là các trường cao đẳng về đồng, có các nghiên cứu nhỏ và chỉ cung cấp các Teamwork học 戴思杰 hai năm. Tuy nhiên, những sinh viên có gièm năng vẫn có mùa chuyển truyện từ các trường cao đẳng hai năm đã hát một trường ĐH nghiên cứu có uy tín. Các trường tư thục với học phí cao ngất ngưởng, cũng có chính sách dành cho nhiều đối tượng ông nội. Chẳng hạn như ĐH đại học Harvard hiện giảng dạy miễn phí cho những sinh viên mà thu nhập của gia đình ít hơn 40.000 đô mỗi năm, và giảm học phí đáng kể cho các sinh viên đến từ các gia đình có thu nhập vào khoảng 40.000 đến 60.000 mỗi năm. Năm rồi, cũng có một số sinh viên Việt Nam được nhận thẳng vào Harvard, Brown, Princeton, đại học Yale với học bổng toàn phần. Các trường ĐH hàng đầu Micae cũng có chính sách ưu tiên cho các vận động viên, những người nộp thể sớm và con cái của các cựu sinh viên của trường.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Ba nguyên tắc phổ biến

Nguyên tắc đầu tiên là chính phủ liên nổ chỉ đóng vai trò an much hạn chế. Nước Mỹ do not have a kế hoạch từ trung ương dành cho fields ĐH. Họ no coi giảng viên, giáo sư ĐH is all viên chức nhà nước, such as thường thấy out all nước khác. Thay vì vậy, fields ĐH have hàng loat the nguồn tài trợ, từ chính phủ liên nổ until the tổ chức tôn giáo, from sinh viên, cựu sinh viên Rung Rinh tiền bạc, until the nhà tài trợ hào phóng like Ezra Cornell, Cornelius Vanderbilt, Johns Hopkins and John D.Rockefeller. Truyền thống cho and nhận tài trợ this retained exists until ngày nay:. Trong năm tài chính 2004 all nhà tài trợ was đổ into ĐH out Mỹ 24,4 tỉ đô la

Sự quản lý giới hạn of nhà nước here is not means nhà nước quản lý an cách Dung Dung, trên hết is quản lý vĩ mô. Chính phủ liên đập have nhiều lần bắt tay intervention into ĐH, chẳng hạn like bộ luật Morrill về việc cấp đất đai ban hành năm 1862 you made fields ĐH been cấp đất to built. Nhà nước rót tiền vào fields cao đẳng cộng đồng. Dự luật GI năm 1946 was mang fields ĐH to tầm tay of mọi người. Chính phủ liên đập retained tiếp tục rót hàng tỉ đô la vào hoạt động khoa học và nghiên cứu.

Nguyên tắc thứ hai is cạnh tranh. Các trường đại học cạnh tranh for nhau về mọi thứ, từ sinh viên until giáo sư and all cả ngôi sao bóng rổ. Các giáo sư cạnh tranh to dành are all khoản tài trợ cho nghiên cứu từ Phía chính quyền. Các sinh viên thì cạnh tranh about the khoản học bổng cao đẳng, đại học or the học bổng nghiên cứu sinh. This means that the học viện thành công unable nghỉ Ngòi (ngủ quên) trong vinh quang.

Nguyên Tắc thứ ba is not hữu dụng. Ở ĐH Wisconsin: "Khỉ cây củ cải of any nông dân nào có vấn đề, they gửi ngay one giáo sư to to điều tra sự cố an cách much khoa học". Henry SteeleCommager, one nhà sử học người Mỹ thế kỷ 20, lưu ý that one người Mỹ bình thường out thế kỷ 19 was coi giáo dục like niềm tin tín ngưỡng their miễn is it "thiết thực and sinh lời". Sự nhấn mạnh hai chữ "sinh lời" stored nguyên nét đặc trưng nổi bật of nền văn hóa ĐH Mỹ. Người Mỹ was tiên phong trong nghệ thuật connect between the giới học giả and công nghiệp. Các đại học ở Mỹ every năm kiếm been than one tỉ đô la nhờ vào tiền bản quyền phát minh and phí nhượng quyền. Hơn 170 trường ĐH have tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh and hàng tá fields khác have quỹ đầu tư of its own them.

Sự đa dạng the system

Sự đa dạng the system ĐH Mỹ cho phép they provide a hệ thống phong phú those loại học viện khác nhau. Chỉ Khoang 100 trong tổng số 3.200 ĐH of Mỹ is ĐH nghiên cứu. Các trường ĐH công lập đầu vực like Michigan, Texas and Berkeley, California provided one nền giáo dục tầm cỡ thế giới with one cái giá Recent like cho no. Đa phần còn lại là fields cao đẳng cộng đồng, have nghiên cứu nhỏ and only cung cấp các khóa học dài hai năm. However, the sinh viên able to activities that can transition from trường cao đẳng hai năm hát one trường ĐH nghiên cứu have uy tín.

Các trường tư thục as học phí cao ngất ngưỡng, also chính sách dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn like ĐH Harvard hiện giảng dạy miễn phí for the sinh viên which income of gia đình less than 40.000 đô every năm, and shrink học phí đáng Kẻ Chợ the sinh viên to from gia đình no income vào blank 40,000 to 60,000 năm at a. Năm rồi, also of some sinh viên Việt Nam received thẳng vào Harvard, Brown, Princeton, Yale as học bổng toàn phần. Các trường ĐH hàng đầu khác also policy priority for all vận động viên, users nộp đơn sớm and con cái of the cựu sinh viên the field.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: