If one looks at Austin’s work – and, similarly, ifone prefers to trace dịch - If one looks at Austin’s work – and, similarly, ifone prefers to trace Việt làm thế nào để nói

If one looks at Austin’s work – and

If one looks at Austin’s work – and, similarly, ifone prefers to trace the roots of legal positivism tothe early writings of Jeremy Bentham (1748–1832) (Bentham 1970; Bentham [1789] 1996)or the work of the English political theoristThomas Hobbes (Hobbes [1651] 1996) – thenthe purpose of proposing a legal positivist position seems straightforward: it is an effort to establish a study of the nature of law, disentangledfrom proposals and prescriptions for which lawsshould be passed or how legal practice should bemaintained or reformed.One might push a little further, and discusshow Austin ([1879] 2002, vol. 2: 1107–8), and,some decades later, Hans Kelsen (1881–1973),emphasized the objective of making law into a‘‘science’’ (though, as regards Kelsen’s work, itshould be noted thatWissenschaftin German hasa much broader extension, and fewer implications, than ‘‘science’’ in English). Kelsen wasreacting against sociologists of law; he sought a
way of studying law ‘‘as such,’’ purified of history,
social theory, and so forth (Kelsen [1934] 1992:
7–8). Kelsen was thereby taking the concerns of
Austin and Bentham a step further: to exclude not
only practical and theoretical disquisitions about
how governments should be organized, but also
to exclude more academic discussions about the
history or sociology of the law, and the like. These
were times when there was great optimism that
the same sort of rigor and objectivity could be
applied to the study of human behavior that had
been applied to the physical sciences, and that
perhaps the same level of progress could be
made. While this sort of optimistic ‘‘delusion’’
about the human sciences is at least as old as the
Enlightenment (e.g., Berlin 1997: 326–58), a
similar sort of optimism has dominated thinking
about law at various more recent periods – not
only in Christopher Columbus Langdell’s (1826–
1906) quasi-scientific thinking about law and
legal education that notoriously grounded his
new ‘‘case method’’ at the end of the nineteenth
century and the beginning of the twentieth century (see Twining 1985: 11–12), but also in the
writings of American legal realists (and the postrealists) of the early and middle decades of
the twentieth century, when these writers
offered ‘‘policy science’’ as the way to make law
‘‘modern’’ and ‘‘objective.’’ See AMERICAN
LEGAL REALISM.
We may treat such views as naı¨ve, or at least
misguided; we may think that it only tends to hide
or disguise the political aspects of law and the
inevitable biases of its commentators to use a
term like ‘‘science’’ which (in English at least)
implies a level of objectivity and disinterestedness
that we are unlikely to attain in the study of how
societies regulate their citizens through rules and
institutions. However, if we consider the search
for a ‘‘science’’ of law at a more general or more
metaphorical level, the objective is simply aseparate studyof law – a study in the ‘‘scientific spirit’’
of independent observation and analysis, separate
from the important, but quite different, striving
for legal reform and justice. And, so understood,
the objective seems neither misguided nor naı¨ve –
though it may yet turn out to be unobtainable.
There seems less significance (and less urgency)
today than there was two hundred years ago to an
argument urging the separate study of ‘‘law as it
is.’’ We are living at a time where we are surrounded by law schools – almost certainly too
many rather than too few – devoted to the
graduate-level study of law and legal practice,
and journals devoted to every aspect of law and
every conceivable approach to its investigation. It
should be remembered that things were much
different as recently as two hundred years ago
(around the time when legal positivism had its
beginnings) – a time when there was little university-based legal education, either in the United
States or in England. The first time a law school
appeared as a professional school within an
American university was in 1817 (at Harvard
University). Prior to that date, law schools were
largely proprietary institutions, set up independent of university education – though there was a
professorshipin law somewhat earlier, at the College of William and Mary in 1779 (Warren 1908,
vol. 1: 1). In England, the first university instruction in the common law came as late as 1753, with
Sir William Blackstone’s Oxford University lectures (Holdsworth 1903–38, vol. 12: 91); the
first Chair in Law outside of Oxford and Cambridge was given to John Austin at University
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Nếu một nhìn vào công việc của Austin-, và tương tự như vậy, ifone thích nguồn gốc của positivism pháp lý để các tác phẩm đầu của Jeremy Bentham (1748-1832) (Bentham 1970; Bentham [1789] năm 1996) hoặc công việc của Anh chính trị theoristThomas Hobbes (Hobbes [1651] năm 1996) – thenthe mục đích của đề xuất một vị trí pháp lý theo có vẻ đơn giản: nó là một nỗ lực để thiết lập một nghiên cứu về tính chất của pháp luật, disentangledfrom đề xuất và các quy định đối với lawsshould mà là thực hành thông qua hoặc pháp lý như thế nào nên bemaintained hoặc cải cách.Một có thể đẩy xa hơn một chút, và discusshow Austin ([1879] năm 2002, vol. 2:1107-8), và một số thập kỷ sau đó, Hans Kelsen (1881-1973), nhấn mạnh mục tiêu làm luật thành một khoa học '''' (mặc dù, như Trân trọng công việc của lập, itshould là nổi tiếng thatWissenschaftin đây Đức nhiều phần mở rộng rộng hơn, và tác động ít hơn, hơn '' khoa học '' bằng tiếng Anh). Lập wasreacting chống lại xã hội học của pháp luật; ông đã tìm kiếm mộtcách học tập luật '' như vậy,'' tinh khiết của lịch sử,lý thuyết xã hội, và vv (lập [1934] năm 1992:7-8). Lập do đó đã tham gia các mối quan tâm củaAustin và Bentham một bước xa hơn: để loại trừ khôngchỉ thực tế và lý thuyết disquisitions vềlàm thế nào chính phủ nên được tổ chức, nhưng cũngđể loại trừ nhiều học thảo luận về cáclịch sử hoặc xã hội học của pháp luật, và như thế. Đâylần khi đã có tuyệt vời lạc quan rằngcùng một loại sự chặt chẽ và khách quan có thểáp dụng cho nghiên cứu về hành vi của con người cóđược áp dụng cho vật lý, và đócó lẽ cùng một mức độ tiến bộ có thểthực hiện. Trong khi điều này loại lạc quan '' ảo tưởng ''về khoa học của con người là ít như cũ như cácGiác ngộ (ví dụ như, Béc-lin 1997:326-58), mộttương tự như loại lạc quan đã thống trị suy nghĩvề luật tại thời kỳ khác nhau gần đây-khôngchỉ tại Christopher Columbus Langdell của (1826-tư duy khoa quasi-học 1906) về luật vàgiáo dục Pháp luật nổi tiếng là căn cứ của mình'' trường hợp phương pháp mới '' vào cuối mười chínthế kỷ và đầu thế kỷ 20 (xem cây 1985: 11-12), nhưng cũng trong cáctác phẩm của Mỹ realists pháp lý (và các postrealists) của đầu và giữa thập kỷ củathế kỷ 20, khi các nhà văncung cấp '' chính sách khoa học '' như là cách để thực hiện luật'' hiện đại '' và '' Mục tiêu ''. Xem MỹPHÁP LÝ HIỆN THỰC.Chúng tôi có thể coi quan điểm như vậy là naı¨ve, hoặc ítsai lầm; chúng tôi có thể nghĩ rằng nó chỉ có xu hướng để ẩnhoặc che giấu những khía cạnh chính trị của pháp luật và cáckhông thể tránh khỏi thành kiến của các nhà bình luận để sử dụng mộtCác thuật ngữ như "khoa học '' mà (bằng tiếng Anh tối thiểu)ngụ ý một mức độ khách quan và disinterestednessrằng chúng tôi có khả năng để đạt được trong nghiên cứu như thế nàoxã hội điều chỉnh công dân của họ thông qua các quy tắc vàCác tổ chức. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét việc tìm kiếmcho một khoa học '''' của pháp luật tại tổng hợp thêm một hoặc nhiều hơnmức độ ẩn dụ, mục tiêu là chỉ đơn giản là aseparate studyof luật-một nghiên cứu tinh thần khoa học ''''độc lập quan sát và phân tích, riêng biệttừ quan trọng, nhưng khá khác nhau, phấn đấucải cách pháp lý và tư pháp. Và, như vậy hiểu,mục tiêu có vẻ không sai lầm và cũng không naı¨ve-mặc dù nó có thể được bật ra được unobtainable.Có vẻ ít hơn ý nghĩa (và ít hơn mức độ khẩn cấp)ngày nay hơn đã có hai trăm năm trước đây để mộtđối số kêu gọi nghiên cứu riêng biệt của '' luật vì nólà. " Chúng ta đang sống tại một thời điểm mà chúng tôi được bao quanh bởi trường luật-hầu như chắc chắn quánhiều hơn là quá ít-dành cho cáctốt nghiệp cấp nghiên cứu của pháp luật và thực hành pháp lý,và tạp chí dành cho mọi khía cạnh của pháp luật vàmỗi phương pháp tiếp cận conceivable để điều tra của nó. Nónên nhớ rằng mọi thứ đã là nhiềukhác nhau như gần đây là hai trăm năm trước đây(khoảng thời gian khi quy phạm pháp luật positivism có của nókhởi đầu)-một thời gian khi có ít trường đại học dựa trên giáo dục Pháp luật, hoặc là ở Hoa KỳKỳ hoặc ở Anh. Lần đầu tiên một trường luậtxuất hiện như là một trường học chuyên nghiệp trong vòng mộtTrường đại học Mỹ năm 1817 (ở Đại học HarvardĐại học). Trước khi ngày đó, trường luậtphần lớn thuộc quyền sở hữu cơ sở giáo dục, thiết lập độc lập của đại học giáo dục-mặc dù đã có mộtprofessorshipin luật phần nào trước đó, tại trường cao đẳng William và Mary năm 1779 (Warren 1908,Vol. 1: 1). Tại Anh, hướng dẫn đại học đầu tiên trong luật pháp phổ biến đến cuối năm 1753, vớiSir William Blackstone của đại học Oxford bài giảng (Holdsworth 1903-38, vol. 12:91); Cácđầu tiên ghế trong luật bên ngoài của Oxford và Cambridge đã được trao cho John Austin tại trường đại học
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
If one looks at Austin’s work – and, similarly, ifone prefers to trace the roots of legal positivism tothe early writings of Jeremy Bentham (1748–1832) (Bentham 1970; Bentham [1789] 1996)or the work of the English political theoristThomas Hobbes (Hobbes [1651] 1996) – thenthe purpose of proposing a legal positivist position seems straightforward: it is an effort to establish a study of the nature of law, disentangledfrom proposals and prescriptions for which lawsshould be passed or how legal practice should bemaintained or reformed.One might push a little further, and discusshow Austin ([1879] 2002, vol. 2: 1107–8), and,some decades later, Hans Kelsen (1881–1973),emphasized the objective of making law into a‘‘science’’ (though, as regards Kelsen’s work, itshould be noted thatWissenschaftin German hasa much broader extension, and fewer implications, than ‘‘science’’ in English). Kelsen wasreacting against sociologists of law; he sought a
way of studying law ‘‘as such,’’ purified of history,
social theory, and so forth (Kelsen [1934] 1992:
7–8). Kelsen was thereby taking the concerns of
Austin and Bentham a step further: to exclude not
only practical and theoretical disquisitions about
how governments should be organized, but also
to exclude more academic discussions about the
history or sociology of the law, and the like. These
were times when there was great optimism that
the same sort of rigor and objectivity could be
applied to the study of human behavior that had
been applied to the physical sciences, and that
perhaps the same level of progress could be
made. While this sort of optimistic ‘‘delusion’’
about the human sciences is at least as old as the
Enlightenment (e.g., Berlin 1997: 326–58), a
similar sort of optimism has dominated thinking
about law at various more recent periods – not
only in Christopher Columbus Langdell’s (1826–
1906) quasi-scientific thinking about law and
legal education that notoriously grounded his
new ‘‘case method’’ at the end of the nineteenth
century and the beginning of the twentieth century (see Twining 1985: 11–12), but also in the
writings of American legal realists (and the postrealists) of the early and middle decades of
the twentieth century, when these writers
offered ‘‘policy science’’ as the way to make law
‘‘modern’’ and ‘‘objective.’’ See AMERICAN
LEGAL REALISM.
We may treat such views as naı¨ve, or at least
misguided; we may think that it only tends to hide
or disguise the political aspects of law and the
inevitable biases of its commentators to use a
term like ‘‘science’’ which (in English at least)
implies a level of objectivity and disinterestedness
that we are unlikely to attain in the study of how
societies regulate their citizens through rules and
institutions. However, if we consider the search
for a ‘‘science’’ of law at a more general or more
metaphorical level, the objective is simply aseparate studyof law – a study in the ‘‘scientific spirit’’
of independent observation and analysis, separate
from the important, but quite different, striving
for legal reform and justice. And, so understood,
the objective seems neither misguided nor naı¨ve –
though it may yet turn out to be unobtainable.
There seems less significance (and less urgency)
today than there was two hundred years ago to an
argument urging the separate study of ‘‘law as it
is.’’ We are living at a time where we are surrounded by law schools – almost certainly too
many rather than too few – devoted to the
graduate-level study of law and legal practice,
and journals devoted to every aspect of law and
every conceivable approach to its investigation. It
should be remembered that things were much
different as recently as two hundred years ago
(around the time when legal positivism had its
beginnings) – a time when there was little university-based legal education, either in the United
States or in England. The first time a law school
appeared as a professional school within an
American university was in 1817 (at Harvard
University). Prior to that date, law schools were
largely proprietary institutions, set up independent of university education – though there was a
professorshipin law somewhat earlier, at the College of William and Mary in 1779 (Warren 1908,
vol. 1: 1). In England, the first university instruction in the common law came as late as 1753, with
Sir William Blackstone’s Oxford University lectures (Holdsworth 1903–38, vol. 12: 91); the
first Chair in Law outside of Oxford and Cambridge was given to John Austin at University
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: