Đảng Cộng sản, là ICP sau này sẽ được biết đến, khôi phục truyền thống của bình đẳng giới của Việt Nam, đánh dấu đến của đất nước ở thời hiện đại. Các học giả phương Tây sympa- thetic với cách mạng Việt Nam đã nhân rộng lập luận này đến mức độ khác nhau,
mặc dù vài hoàn toàn chấp nhận narrative.66 này
trong chính quyền miền Nam, một tầm nhìn của một hiện đại, không cộng sản Việt Nam nghỉ ngơi trong việc thực hiện của các tổ chức tự do phương Tây trong suốt giai đoạn ảnh hưởng của Mỹ trong những năm 1950 và 1960. Ở đó, các học giả pháp lý có quan hệ gần gũi với các nam Việt
chính phủ dựa vào lập luận về quyền sở hữu của phụ nữ trong L eCode để củng cố tuyên bố của họ về một hiện đại mới xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Nhất
ảnh hưởng của các học giả, V~ V Mẫu, một cựu chiến binh của thế hệ các học giả pháp lý u một
huấn luyện bởi người Pháp, từng là giáo sư và là Hiệu trưởng Trường Luật Sài Gòn, nơi ông nhân rộng chiến lược của EFEO bằng cách cho bản dịch tiếng Việt hiện đại chính
các văn bản quy phạm pháp luật 'truyền thống'. Mẫu một cách rõ ràng xác định luật truyền thống Việt là 'dân'
trong nguồn gốc của nó, và là công cụ trong việc kết nối các đối số cho các sáng kiến chính trị của
các regime.67 nam Trong những năm đó, một học giả pháp lý trẻ xuất hiện để cung cấp sự khớp nối rõ ràng nhất về mối liên hệ giữa tiền pháp luật Việt -Màu và hiện đại ở Nam Việt Nam. Một giáo sư luật ở chế độ miền Nam trong mười năm trước khi gia nhập các
giảng viên Trường Luật Harvard vào năm 1975, Tạ V T` lập luận rằng luật pháp truyền thống Việt. một ai
được mã hóa một tradition.68 nữ quyền bản địa T` lập luận rằng hệ thống hóa ai bằng
quyền tài sản cho con gái và con trai trong văn bản quy phạm pháp luật mười lăm thế kỷ này đã chứng minh
rằng "Mã L đại diện chính hãng tùy chỉnh tiếng Việt [và đưa] bình đẳng về quyền công dân điện tử
để women'.69 Việt Anh cũng đã lập luận rằng thực tiễn pháp lý đầu Việt thể hiện các giá trị quan trọng của nhân quyền quốc tế như đã nêu trong Kỳ
ước quốc của 1.945,70 học bổng T` s cho thấy rằng người ta có thể tìm thấy nguồn gốc ai
'của' hiện đại 'trong truyền thống Việt luật pháp, một postscript quan trọng cho những ai
tin vào lời hứa của các thí nghiệm thất bại dân chủ ở miền Nam Vietnam.71 học giả phụ nữ Việt, cá biệt của Việt Nam, và giới tính bất bình đẳng trong những năm gần đây, các tác phẩm của các học giả phụ nữ Việt đã phản ánh một sự căng thẳng giữa các mục tiêu đề ra của họ của việc đạt được bình đẳng giới cho phụ nữ và phù hợp với câu chuyện nhà nước đã được phê duyệt của các ngoại lệ Việt. Các tác phẩm sớm nhất mô tả sự phát triển của các điều kiện của phụ nữ Việt Nam, được sản xuất trong hoặc ngay sau chiến tranh chống Mỹ, tiếp theo khá sát tường thuật nhà nước về những ảnh hưởng của chế độ phong kiến về các điều kiện của phụ nữ ở Việt Nam. Qua thời gian, và đặc biệt là kể từ khi tự do hóa của nền kinh tế Việt Nam trong năm 1986, các học giả cùng đã lặng lẽ thách thức những tuyên bố về bình đẳng giới được thực hiện rõ ràng trong câu chuyện của nhà nước Việt Nam. Nổi bật nhất trong những học giả, L Thi. Nh Tuyết, thành lập các Trung tâm e đang nghiên cứu về phụ nữ và Nghiên cứu Giới tính (nay là Viện Nghiên cứu về Giới, Gia đình và Môi trường và Phát triển) vào năm 1990 và đã đi đầu trong việc nghiên cứu về phụ nữ và giới tính trong Vietnam.72 Bằng cách làm việc trong khuôn khổ của nhà nước tuyên bố mục tiêu bình đẳng giới và tín dụng nhà nước với việc thiết lập sự bình đẳng giới trong pháp luật, các học giả phụ nữ đã tạo ra các không gian nơi mà họ có thể làm việc hướng tới việc trao quyền cho phụ nữ. Những học giả nữ xuất sắc nhất có thể được mô tả như các nhà khoa học xã hội làm việc về các vấn đề liên quan đến phụ nữ, giới và phát triển, chứ không phải là học giả 'nữ quyền'. Điều này
đang được dịch, vui lòng đợi..