phần mình trình bày các số liệu thống kê tóm tắt các đặc điểm kinh tế-xã hội của bị đơn, và cũng có phản ứng trả lời của liên quan đến nhận thức và thái độ của họ.
5.1 đặc điểm kinh tế xã hội
Khách truy cập vào TNGP Park có thể được chia thành hai loại, địa phương và du khách quốc tế. Nhưng, đối với nghiên cứu này, các du khách đã được lựa chọn là địa phương chỉ riêng khách. Để đảm bảo rằng các mẫu được lựa chọn là đại diện của người dân, một số câu hỏi đã hỏi liên quan đến các đặc điểm kinh tế xã hội của các du khách.
Thông tin về hồ sơ của người trả lời bao gồm tuổi, giới tính, khu vực dân cư, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp của họ, và thu nhập. Các biến kinh tế xã hội của người trả lời, thu thập về các biến phân loại, được tóm tắt trong Bảng 2. Đối với tuổi Với, các du khách khi đến TNGP đến từ cấp độ khác nhau của độ tuổi. Kết quả cho thấy lứa tuổi của người trả lời nằm trong khoảng 16-68 tuổi. Hầu hết người được phỏng vấn là trong khoảng 21-30 tuổi (53 phần trăm). Điều này đã được theo sau bởi những người 31-40 tuổi (20,1 phần trăm), dưới 20 tuổi (14,4 phần trăm), 41-50 tuổi (7,8 phần trăm), và con số thấp nhất số người trả lời phỏng vấn là những người trên 50 tuổi (4,7 phần trăm ). Thông tin này cho thấy, hầu hết du khách đến thăm TNGP đến từ các nhóm tuổi trung niên. Các hoạt động trong công viên này bao gồm leo núi Gede và Núi Pangrango, cắm trại, và đi bộ đường dài, đòi hỏi hoạt động thể chất và sức mạnh.
Hầu hết du khách đến thăm công viên đến từ các thành phố trên khắp TNGP, như Jakarta, và Bogor (Wiratno et al., 2004) . Thông thường, họ đi vào những ngày cuối tuần để nghỉ ngơi và tận hưởng phong cảnh tuyệt đẹp và không khí trong lành trong công viên. Kết quả cho thấy khoảng 77,3 phần trăm số người được hỏi là từ khu vực đô thị và chỉ có 22,7 phần trăm từ khu vực nông thôn. Kết quả này chỉ ra rằng những người từ khu vực thành thị có sự quan tâm nhiều hơn với các nguồn tài nguyên thiên nhiên và du lịch sinh thái tại công viên vì những điều kiện rất khó tồn tại trong khu vực đô thị. Mặt khác, các nguồn tài nguyên thiên nhiên được dùng chung cho các cộng đồng nông thôn. Hơn nữa, có rất nhiều nơi như TNGP, đặc biệt là ở Tây Java.
Mức độ giáo dục cho thấy rằng hầu hết những người được hỏi (61,2 phần trăm) đã cấp bằng tốt nghiệp / đại học. Tiếp theo đó là mức sinh trung học (33,1 phần trăm), trình độ sơ cấp (4,0 phần trăm), cấp tiểu học (1,4 phần trăm),
Mean WTP được ước tính bằng diện tích
(1)
179
Vol. 2, số 2 Tạp chí Phát triển bền vững
and không có giáo dục hoặc người được hỏi bao giờ được đi học (0,2 phần trăm). Điều này ngụ ý rằng du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Gunung Gede Pangrango có xu hướng được độc quyền bởi những người trung lưu và có học vấn cao. Những nhóm người đánh giá cao các hoạt động du lịch sinh thái hơn các nhóm khác (trình độ học vấn thấp hơn).
Các loại nghề nghiệp của người trả lời trong các câu hỏi được chia thành 10 nhóm. Như thể hiện trong Bảng 2, đã có 152 (35,9 phần trăm) được hỏi ai đã làm việc như một nhân viên tư nhân, và tiếp theo là doanh nhân 83 người được hỏi (19,6 phần trăm), sinh viên 54 người được hỏi (12,8 phần trăm), và chính phủ khu vực 40 người trả lời (9,5 phần trăm). Những nhóm người cần nhiều hơn để giảm bớt sự nhàm chán giải trí của họ do hoạt động thường xuyên của họ.
Thông thường, mức thu nhập của người trả lời là một yếu tố quan trọng mà sẽ ảnh hưởng tới WTP của họ cho các khoản lệ phí đã được tính phí cho họ. Nói chung, thu nhập cao hơn cho thấy rằng họ sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các vé vào cửa. Các nghiên cứu trước bởi Hanim (1999), Zhongmin et al. (2002), và Syakya (2004) đã xác định được rằng thu nhập ảnh hưởng đến WTP đội khách. Trong nghiên cứu này, hầu hết người được hỏi (54,6 phần trăm) có thu nhập trung bình của hộ từ RP 750.001 - 1.500.000 RP mỗi tháng. Tiếp theo là người trả lời có thu nhập trên RP 1.500.000 (28,4 phần trăm), và so với cuối cùng là nhóm người trả lời về thu nhập dưới RP 750.000 (17,0 phần trăm).
5.2 Sẵn sàng trả phân tích
Phần này bàn về WTP tuyên bố của người trả lời. Các phân tích sử dụng các lựa chọn CVM phân đôi. Trong sự lựa chọn CVM nhị giá, mỗi người trả lời được hỏi liệu họ có sẵn sàng trả một mức giá cụ thể cho lệ phí tuyển sinh đến thăm TNGP, cho phép họ trả lời với 'có' hoặc 'không' với giá lệ phí tuyển sinh được cung cấp (dự thầu). Hồ sơ dự thầu giữa RP 5000 (RM 1.92) để RP 9000 (RM 3,46) đã được phân công trong cuộc khảo sát này tại TNGP.
Các tần số phân bố sự sẵn lòng chi trả ở mỗi số tiền giá thầu của người trả lời được thể hiện trong Bảng 3. Nói chung, đã có 258 ( 61 phần trăm) trong số 423 người được hỏi sẵn sàng trả tiền cho giá thầu đưa ra, và 165 người trả lời (39 phần trăm) là không sẵn sàng.
Đối với phân tích WTP, dữ liệu được ước tính bằng cách sử dụng phân tích logit. Các hồ sơ dự thầu của RP 5000 để RP 9000 đã được trao cho người trả lời. Nói chung, nó được tìm thấy rằng 61 phần trăm số người được hỏi sẵn sàng trả các hồ sơ dự thầu được đưa ra, trong đó có 39 phần trăm là không sẵn sàng trả. Các kết quả phù hợp với kỳ vọng lý thuyết; là giá thầu nhất định được tăng lên, số người được hỏi sẵn sàng trả giảm. Với một mức giá RP 5000 trao cho người trả lời, khoảng 27,5 phần trăm là sẵn sàng trả và chỉ có 6,1 phần trăm sẽ không được. Khi một RP 9000 của mức giá đã được đưa ra, 33,3 phần trăm số người được hỏi không muốn trả, và 11,2 phần trăm là sẵn sàng trả cho mức giá được đưa ra này.
Các hồi quy logit nhị phân được sử dụng để phân tích xác suất của WTP đội khách cho cửa ra vào lệ phí tại TNGP. Phân tích này cũng đã được sử dụng để kiểm tra nếu có sự khác biệt đáng kể trong các biến của các yếu tố kinh tế xã hội, và để cung cấp thêm thông tin về các biến độc lập có ảnh hưởng khả năng chi trả hồ sơ dự thầu. Việc lập dự toán ban đầu của mô hình liên quan đến đặc điểm kinh tế-xã hội cho đội khách như tuổi tác, giới tính, tình trạng hôn nhân, khu dân cư, và mức thu nhập. Các kết quả của ước lượng tham số của logit tuyến tính được trình bày trong Bảng 4.
Dựa vào kết quả tóm tắt trong Bảng 4, các biến đều có ý nghĩa ở mức 1 phần trăm là cư đô thị và mức thu nhập. M giới có ý nghĩa ở mức 10 phần trăm. Sự tốt lành của sự phù hợp cho các hồi quy được cho bởi Nagelkerke R-Square của 0,563. Tỷ lệ dự đoán chính xác là 79 phần trăm. Phân tích này cho thấy rằng các kết quả đã đạt yêu cầu.
Hệ số giá (bid) là tiêu cực như mong đợi, theo giá trị của -0,00122. Điều đó ngụ ý rằng giá thầu cao hơn cung cấp, ít hơn số người được hỏi sẵn sàng trả giá thầu, đó là ý nghĩa ở mức độ tin cậy 1 phần trăm.
Theo kết quả hồi quy logit, hệ số giới tính (nam) minh họa một giá trị tích cực (0,574 ). Trong bảng câu hỏi được đưa ra, 0 đề cập đến nam và 1 đề cập đến nữ. Các tỷ lệ kỳ lạ của biến này là 1,775. Vì vậy, như mong đợi, nam giới sẵn sàng trả giá thầu cao hơn so với phụ nữ truy 1,775 lần.
Biến dân cư (đô thị) là có ý nghĩa ở mức 1 phần trăm của sự tự tin cấp độ, với một giá trị 1,408. Nó minh họa cho du khách thành thị có giá trị tích cực cho WTP. Các tỷ lệ kỳ lạ của biến này là 4,086, nghĩa là du khách đến từ khu vực đô thị là WTP gồm giá dự thầu cao hơn 4,806 lần so với du khách đến từ các khu vực nông thôn.
Các mô hình lựa chọn phân đôi ngũ định giá đơn giáp (DC-CV) đã được áp dụng để kiểm tra dữ liệu. Đối với mô hình DC-CV, hai kết quả có thể xảy ra; hoặc là người trả lời là không sẵn sàng trả cho mức giá của lệ phí tuyển sinh được cung cấp hoặc đơn sẵn sàng chi trả cho mức giá của lệ phí tuyển sinh cung cấp. Giá dự thầu là biến phụ thuộc, trong đó 1 = 'yes' và 0 = 'no' để đáp ứng với các câu hỏi trưng cầu dân ý giả. Dự thầu là giá (Rp A) mà người trả lời sẽ trả cho lệ phí tuyển sinh. Dựa trên các kết quả ước lượng, biện pháp WTP tương đương được tính toán bằng cách sử dụng mô hình hồi quy logit ở giá trung bình và mức thu nhập. Chương trình Mathematica 5.0 đã được sử dụng để tính toán giá trị thực tế giá sẵn lòng trả của du khách. Kết quả cho thấy WTP cho Phí vào cổng TNGP là RP 7629,77 mỗi lần.
Từ mô hình hồi quy logit, dựa trên giá trị của WTP đội khách, lợi ích hay giá trị kỳ vọng của tài nguyên du lịch sinh thái tại TNGP có thể được tính toán. Kể từ khi có sự gia tăng trong tổng số tiền của khách, tổng lợi ích tại TNGP cũng sẽ
180
Tạp chí Phát triển bền vững tháng bảy, năm 2009 tăng mỗi năm. Bảng 5 cho thấy những lợi ích dự kiến tại TNGP mà có thể được chụp bởi các quản lý cho năm
1995 đến năm 2004. Tổng giá trị tài nguyên du lịch sinh thái trong TNGP được ước tính vào khoảng 400 RP triệu một năm.
đang được dịch, vui lòng đợi..