0,2 ??????? Phát hiện của các tế bào T kháng nguyên cụ thể
là không thể chối cãi rằng cải thiện các chiến lược tiêm chủng thường đòi hỏi mạnh mẽ hơn trong cảm ứng in vivo của effector và bộ nhớ tế bào T đặc hiệu kháng nguyên hay, tiêm phòng trị liệu, điều chế các quần thể tế bào T đặc hiệu kháng nguyên đã có. Hành In-, nhiều giao thức tiêm và thuốc thử đã được phát triển trong thập kỷ qua, với mục tiêu cụ thể của việc cải thiện tế bào T miễn dịch. Tuy nhiên, sự cải thiện của T tiêm tế bào cơ bản là phụ thuộc vào giám sát chính xác về sự thành công của tiêm chủng Tcell và mối tương quan của tình trạng Tcell vaccine gây ra với chất lượng bảo vệ. Sự hiện diện và tần số của Tcells đặc hiệu kháng nguyên trong cơ thể có thể được phát hiện bằng phương pháp 'chức năng độc lập' 'chức năng phụ thuộc vào' và. Cho đến gần đây, các limit- pha loãng ing khảo nghiệm (LDA) là kỹ thuật duy nhất có sẵn để xác định tần số Tcell gen cụ thể chống [4]. LDA được dựa trên sự pha loãng liên tiếp andin vitro Thí Pansion mẫu tế bào trong đĩa 96 giếng, tiếp theo là các xét nghiệm chức năng (như trình liferation hoặc gây độc tế bào xét nghiệm) để xác định số lượng các giếng chứa antigen- dòng tế bào cụ thể hay bắt chước. Các nghiên cứu gần đây sử dụng phương pháp tiên tiến hơn cho ex vivo phân tích tế bào T đã chứng minh rằng những con số thu được bằng xét nghiệm LDA thường phụ hướng bền vững thực sự đánh giá thấp trong cơ thể tần số tế bào T [5-7]. Sự phát triển của những xét nghiệm mà chỉ đòi hỏi rất ngắn gọn trong ống nghiệm restimulation, chẳng hạn như các xét nghiệm enzyme liên kết immunospot (ELISpot) [8] và trong tế bào cytokine nhuộm [5], con- quyết siderably cải thiện tần số tế bào T (Hình 5.1 và 5.2) . Trong các hệ thống khảo nghiệm, các tế bào T đáp ứng kháng nguyên đặc biệt để phát hiện qua khả năng của mình để nhanh chóng tạo ra các cytokine effector như IFN, TNF, IL-2, hay IL-4. Chụp Cytokine là đạt được bằng cách sử dụng một ma trận ái lực, có thể được thành lập Thí tracellularly (ví dụ, bằng cách sử dụng nitrocellulose, ELISpot) hoặc trên bề mặt tế bào (một cái gọi là chụp cytokine khảo nghiệm, CCA [9]). Một phương pháp khác, cytokine nội bào ing stain- (ICS), dựa trên sự tích tụ của các cytokine trong tế bào bằng cách ngăn chặn các bộ máy cretion se- (ví dụ, trong sự hiện diện của brefeldin A hoặc Monensin) và nhuộm tế bào tiếp theo đối với các cytokine quan tâm ( Hình 5.1). Tất cả các xét nghiệm đã được chứng minh là rất nhạy cảm, cho phép ex vivo phát hiện kháng nguyên đặc hiệu Tcell qui cư với tần số thấp 0,02%. Một lợi thế của việc khảo nghiệm ELISpot là nguyên liệu tế bào tương đối ít là cần thiết so với đo dòng tế bào dựa trên hệ thống sự bảo triển (CCA, ICS). Tuy nhiên, đo dòng tế bào cho phép nhuộm đồng thời của các cytokine khác nhau và kháng nguyên bề mặt, cung cấp một phân tích kiểu hình chính xác hơn của các quần thể tế bào đáp ứng. ELISPOTassays đa thông đã tái cently được phát triển để bù đắp cho một số hạn chế của phương pháp này [10]. CCA giữ các tế bào sống, và sự kết hợp với các kỹ thuật tách tế bào như FACS hoặc phân loại với hạt thuận cho phép thanh tẩy của Tcells kháng nguyên cụ thể để phân tích thêm các quần thể tế bào. Tất cả các xét nghiệm phát hiện kháng nguyên-Tcells cific biệt dựa trên một chức năng effector - sản xuất nhanh chóng của các cytokine trong phản ứng để in vitro restimulation với kháng nguyên. Chỉ có các tế bào T có khả năng đáp ứng với các chức năng đọc số effector dưới chọn trong điều kiện restimulation ống nghiệm là de- tected. Bởi vì quần thể tế bào T đặc hiệu kháng nguyên trong cơ thể dưới điều kiện có vẻ t
đang được dịch, vui lòng đợi..