Ty đa quốc gia châu Á như các công ty đến từ Mỹ và các nước châu Âu (Taura, 2005). Tuy nhiên, VO (2009) khẳng định rằng đa quốc gia châu Á đã không được đối mặt với các vấn đề trong việc tuyển dụng người Việt Nam do phóng lực lượng lao động và số tiền thanh toán vẫn còn cao hơn so với các công ty địa phương. Mặt khác, nghiên cứu này cũng chỉ tập quán trong việc thiết thanh toán tiền lương và kế hoạch thưởng của các MNCs khi họ thiết lập kinh doanh tại Việt Nam. Chủ yếu, các MNCs thiết lập các thanh toán đó là dựa vào màn trình diễn của các nhân viên cho dù các công ty để tạo ra lớp hiệu suất như A, B +, B, và C và sau đó mỗi lớp thực hiện sẽ có nhiều hệ số tiền lương và các hạng A có mức lương nhiều tỷ lệ cao hơn hơn lớp B + / B / C. Ngoài ra, VO (2009) cũng xác định rằng các MNCs trong Việt Nam cũng được tính đến sức khỏe của người lao động khi họ thành lập các khoản phụ cấp cho công trình được phân loại vào nguy hiểm, khó khăn và nguy hiểm cho phù hợp. Ngoài ra, cơ chế trả lương của các công ty địa phương đang được thay đổi trong cách đối với hệ thống tiền lương kép cho dù các nhân viên sẽ nhận được mức lương trả cố định và tiền lương trả mềm. Đó là giá trị chỉ ra rằng mức lương lương mềm được phân phối trên trên phong độ thực sự của người lao động và cơ chế trả lương như đang được thay thế cái cũ, cụ thể là chủ nghĩa bình quân thưởng một (VO, 2009).
đang được dịch, vui lòng đợi..
