On-Site Export: The Way ForwardModern trade is paving the way for on-s dịch - On-Site Export: The Way ForwardModern trade is paving the way for on-s Việt làm thế nào để nói

On-Site Export: The Way ForwardMode

On-Site Export: The Way Forward

Modern trade is paving the way for on-site export in Vietnam

On-site export is not a new practice in Vietnam. In the late 1990s, some companies in Tan Thuan and Linh Trung export processing zones were in thirst of materials that could be provided by local producers. Since these materials would be classified under import-export when they entered export processing zones, the practice was called “on-site export.”

On-site export reflects exporters’ demand for domestic materials and offers local firms a chance to serve as satellites for foreign enterprises. As a result, the local content of Vietnam’s export can increase.

Moreover, multilateral transactions are on the rise, with firm A’s goods sold to foreign partners on paper but actually delivered to firm B in Vietnam. The process is as follows:

• Firm A in Dong Nai clinches a contract, under which it will supply foreign partners with materials. This firm will have to carry out export procedure.

• Foreign partners will sell the materials to firm B, which specializes in turning out exports in an industrial or export processing zone. Firm B will carry out import procedure.

• The materials are delivered directly from firm A to firm B.

Sometimes, products, mainly materials, change hands several times before finding their way into export processing zones. Such are the diversity and dynamism of the international trade scene.

Points to note

Supply-chain decisions: Decisions pertaining to the supply chain are often made by foreign firms via regional representatives, which will evaluate and select material suppliers. It is therefore futile for local suppliers to promote products to factory operators in each export processing zone. Suppliers in Korea, Taiwan, Thailand and Malaysia are well aware of this rule and have earned the trust of multinationals.

Product quality: The greatest problem facing Vietnam’s material suppliers is the inconsistent quality of their products. Occasionally, Vietnamese firms must increase the delivery volume by 1% just in case some of the products are sub-standard. Improving quality control to ensure that the products meet international standards is therefore crucial.

Delivery time: Tardy delivery, usually ascribed to such reasons as strikes or power outages, is a perennial shortcoming of Vietnamese producers.

Payment procedure: Telegraphic transfer is the most common mode of payment in this case and is often carried out after delivery has taken place.

Customs: The products must comply with customs requirements. The transaction agreements involve three parties: the seller (firm A), the buyer (foreign firms) and the consignee (firm B). Problems may arise when firm B asks firm A for an invoice used for value-added tax refund.

Prospects

2010 witnessed drastic changes in foreign investment in Vietnam. The relocation of some factories from China to Vietnam is a positive signal in particular. In addition, as foreign-invested enterprises in Vietnam expand their production capacity to cater for larger export markets, demand for domestic materials is likely to rise.

Foreign firms’ investment in material and accessory production have yielded some encouraging results, which are rapidly spreading in many sectors, especially textile and garment. In this sector, the materials required such as buttons or thread are widely available in Vietnam. It thus comes as no surprise that the localization rate of Vietnam’s textile and garment exports can surpass 80%.

Outsourcing is on the rise across all the sectors and can satiate customer demand everywhere. For instance, a carton packaging producer in Malaysia which is to sell products to a foreign-invested enterprise in Vietnam can hire Vietnamese firms to process this order at lowest costs.

Finally, the Government’s supporting industry policy will be instrumental in luring foreign investment. It is thus necessary to promptly concretize incentives for local and foreign investors in supporting industries.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Ngay trong khuôn viên xuất khẩu: Con đường phía trướcThương mại hiện đại mở đường cho xuất khẩu ngay trong khuôn viên tại Việt NamNgay trong khuôn viên xuất khẩu không phải là một thực tế mới tại Việt Nam. Trong cuối thập niên 1990, một số công ty trong tân thuận, khu chế xuất Linh Trung đã khát của vật liệu có thể được cung cấp bởi nhà sản xuất địa phương. Kể từ khi các tài liệu này sẽ được phân loại theo XNK khi họ nhập vào khu chế xuất, các thực hành được gọi là "xuất khẩu ngay trong khuôn viên."Ngay trong khuôn viên xuất khẩu phản ánh nhu cầu xuất khẩu vật liệu trong nước và cung cấp địa phương công ty một cơ hội để phục vụ như là các vệ tinh cho các doanh nghiệp nước ngoài. Kết quả là, nội dung địa phương của Việt Nam xuất khẩu có thể tăng.Hơn nữa, giao dịch đa phương đang gia tăng, với hàng hóa của một công ty bán cho các đối tác nước ngoài trên giấy nhưng thực sự chuyển giao cho công ty B tại Việt Nam. Quá trình này là như sau:• Công ty A tại Đồng Nai clinches một hợp đồng, mà nó sẽ cung cấp cho các đối tác nước ngoài với vật liệu. Công ty này sẽ phải thực hiện các thủ tục xuất khẩu.• Đối tác nước ngoài sẽ bán các tài liệu cho công ty B, nơi chuyên về các biến ra xuất khẩu trong một khu công nghiệp hoặc xuất khẩu chế. Công ty B sẽ thực hiện các thủ tục nhập khẩu.• Các tài liệu được gửi trực tiếp từ công ty A đến công ty B.Đôi khi, sản phẩm, chủ yếu là vật liệu, thay đổi bàn tay nhiều lần trước khi tìm cách của họ vào xuất khẩu khu chế. Đó là sự đa dạng và tính năng động của thương mại quốc tế cảnh.Points to noteSupply-chain decisions: Decisions pertaining to the supply chain are often made by foreign firms via regional representatives, which will evaluate and select material suppliers. It is therefore futile for local suppliers to promote products to factory operators in each export processing zone. Suppliers in Korea, Taiwan, Thailand and Malaysia are well aware of this rule and have earned the trust of multinationals.Product quality: The greatest problem facing Vietnam’s material suppliers is the inconsistent quality of their products. Occasionally, Vietnamese firms must increase the delivery volume by 1% just in case some of the products are sub-standard. Improving quality control to ensure that the products meet international standards is therefore crucial.Delivery time: Tardy delivery, usually ascribed to such reasons as strikes or power outages, is a perennial shortcoming of Vietnamese producers.Payment procedure: Telegraphic transfer is the most common mode of payment in this case and is often carried out after delivery has taken place.Customs: The products must comply with customs requirements. The transaction agreements involve three parties: the seller (firm A), the buyer (foreign firms) and the consignee (firm B). Problems may arise when firm B asks firm A for an invoice used for value-added tax refund.Prospects2010 witnessed drastic changes in foreign investment in Vietnam. The relocation of some factories from China to Vietnam is a positive signal in particular. In addition, as foreign-invested enterprises in Vietnam expand their production capacity to cater for larger export markets, demand for domestic materials is likely to rise.Foreign firms’ investment in material and accessory production have yielded some encouraging results, which are rapidly spreading in many sectors, especially textile and garment. In this sector, the materials required such as buttons or thread are widely available in Vietnam. It thus comes as no surprise that the localization rate of Vietnam’s textile and garment exports can surpass 80%.Outsourcing is on the rise across all the sectors and can satiate customer demand everywhere. For instance, a carton packaging producer in Malaysia which is to sell products to a foreign-invested enterprise in Vietnam can hire Vietnamese firms to process this order at lowest costs.Finally, the Government’s supporting industry policy will be instrumental in luring foreign investment. It is thus necessary to promptly concretize incentives for local and foreign investors in supporting industries.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
On-Site Export: The Way Chuyển tiếp thương mại hiện đại mở đường cho trên trang web xuất khẩu tại Việt Nam xuất khẩu trên trang web không phải là một thực tế mới ở Việt Nam. Trong cuối những năm 1990, một số công ty ở Tân Thuận, Linh Trung xuất khẩu khu chế là trong cơn khát của vật liệu mà có thể được cung cấp bởi các nhà sản xuất địa phương. Từ các tài liệu này sẽ được phân loại theo xuất nhập khẩu khi họ bước vào khu chế xuất, thực hành được gọi là "on-site xuất khẩu." On-site xuất khẩu phản ánh nhu cầu xuất khẩu "đối với nguyên liệu trong nước và cung cấp các doanh nghiệp trong nước có cơ hội để phục vụ làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nước ngoài. Kết quả là, tỷ lệ nội địa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng lên. Hơn nữa, giao dịch đa phương đang gia tăng, với các mặt hàng công ty A bán cho đối tác nước ngoài trên giấy nhưng thực tế gửi đến công ty B tại Việt Nam. Quá trình này như sau: • Công ty A ở Đồng Nai giành cú một hợp đồng, theo đó nó sẽ cung cấp cho các đối tác nước ngoài với vật liệu. Công ty này sẽ phải thực hiện các thủ tục xuất khẩu. • Đối tác nước ngoài sẽ bán các tài liệu cho công ty B, chuyên làm ra hàng xuất khẩu trong khu công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Công ty B sẽ thực hiện thủ tục nhập khẩu. • Các tài liệu được cung cấp trực tiếp từ công ty A làm săn chắc B. Đôi khi, sản phẩm, chủ yếu là nguyên vật liệu, thay đổi tay nhiều lần trước khi tìm đường vào khu chế xuất. Đó là sự đa dạng và tính năng động của cảnh thương mại quốc tế. Các điểm cần lưu ý quyết định chuỗi cung ứng: Các quyết định liên quan đến chuỗi cung ứng thường được thực hiện bởi các công ty nước ngoài thông qua các đại diện khu vực, trong đó sẽ đánh giá và lựa chọn các nhà cung cấp vật liệu. Do đó vô ích cho các nhà cung cấp địa phương để quảng bá sản phẩm đến các nhà khai thác nhà máy trong từng khu chế xuất. Các nhà cung cấp tại Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Malaysia cũng nhận thức được quy luật này và đã giành được sự tin tưởng của đa quốc gia. Chất lượng sản phẩm: Vấn đề lớn nhất đối với các nhà cung cấp nguyên liệu của Việt Nam là chất lượng không phù của sản phẩm của họ. Thỉnh thoảng, các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng khối lượng giao hàng bằng 1% chỉ trong trường hợp một số các sản phẩm này là không đạt tiêu chuẩn. Cải thiện kiểm soát chất lượng để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế là do đó rất quan trọng. Thời gian giao hàng: giao hàng Đi Trễ, thường gán cho lý do như cuộc đình công hoặc cúp điện, là một thiếu sót lâu năm của các nhà sản xuất Việt Nam. Thủ tục thanh toán: chuyển tiền bằng điện là phương thức phổ biến nhất thanh toán trong trường hợp này và thường được thực hiện sau khi giao hàng đã diễn ra. Hải quan: Các sản phẩm phải tuân thủ các yêu cầu hải quan. Các thỏa thuận giao dịch liên quan đến ba bên: bên bán (công ty A), người mua (các doanh nghiệp nước ngoài) và người nhận hàng (công ty B). Vấn đề có thể phát sinh khi công ty B yêu cầu công ty A cho một hóa đơn được sử dụng để hoàn thuế giá trị gia tăng. Triển vọng năm 2010 chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc di dời một số nhà máy từ Trung Quốc sang Việt Nam là một tín hiệu tích cực đặc biệt. Ngoài ra, như các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam mở rộng năng lực sản xuất của họ để phục vụ cho thị trường xuất khẩu lớn hơn, nhu cầu về nguyên liệu trong nước có khả năng tăng. Đầu tư các doanh nghiệp nước ngoài trong vật liệu và sản xuất phụ kiện đã mang lại một số kết quả đáng khích lệ, được nhanh chóng lan truyền trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là ngành dệt may. Trong lĩnh vực này, các nguyên liệu cần thiết như các nút bấm hoặc chủ đề là phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Do đó, nó đến như không có gì ngạc nhiên khi tỷ lệ nội địa xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam có thể vượt qua 80%. Gia công phần mềm đang gia tăng trên tất cả các lĩnh vực và có thể thỏa mãn nhu cầu của khách hàng ở khắp mọi nơi. Ví dụ, một nhà sản xuất bao bì carton ở Malaysia mà là để bán sản phẩm cho một doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có thể thuê các công ty Việt Nam để xử lý đơn hàng này với chi phí thấp nhất. Cuối cùng, chính sách công nghiệp hỗ trợ của Chính phủ sẽ là công cụ trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Đó là vì thế cần thiết để kịp thời cụ thể hóa ưu đãi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong các ngành công nghiệp hỗ trợ.






































đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: