Việt Nam nằm ở phần phía đông của bán đảo Đông Dương và trung tâm của Đông Nam Á và một đất nước nhiệt đới của Bắc bán cầu. Chính phủ là chạy do Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1995, quy mô dân số của Việt Nam đạt 74million, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, thứ bảy ở châu Á-Thái Bình Dương và thứ mười hai trên thế giới. Quy mô dân số sau đó được tăng lên 95 triệu người vào năm 2010. Việt Nam được tính là một nước nghèo nếu tham khảo GDP đất nước riêng của mình mỗi người. Sau khi "Dot Moi" đã đến nước này, nền kinh tế quốc gia cải thiện với tốc độ cao như vậy, nâng cao mức sống và thu nhập quốc gia của người dân địa phương. Đất nước này là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất toàn cầu đã thể hiện một tốc độ tăng trưởng ổn định trong những năm gần đây. Trong khi theo World Economic Outlook (2011) của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, GDP của Việt Nam đã tăng lên bình quân đầu người và phát triển từ nước có thu nhập thấp đến nước thu nhập trung (Richard Rousseau, 2011). Coca-Cola vào thị trường Việt Nam vào năm 2004 và sản xuất năng lượng uống vitamin đóng gói riêng của mình cùng với một số thương hiệu quen thuộc như Joy, Fanta, Sprite, và những người khác cho người tiêu dùng địa phương. Coca-Cola xây dựng ba nhà máy sản xuất tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do để Nhập Việt Nam Vào năm 2004, Coca-Cola đã di chuyển đầu tiên của nó ra khỏi châu Phi và xâm nhập vào các thị trường châu Á trong đó có Việt Nam. Những vụ mua lại đã phù hợp với chiến lược phát triển của Tập đoàn mở rộng sang các thị trường mới nổi, để củng cố vị trí của tổ chức như một thị trường mới nổi Specialist (Coca-Cola Sabco Lịch sử). Động thái đầu tiên của Coca-Cola vào Việt Nam được dựa trên sự phát triển mới nổi lên và nhanh chóng của nền kinh tế ở Việt Nam. Vì sự phát triển dân số nhanh chóng và cải thiện của nền kinh tế ở Việt Nam, Coca-Cola có cơ hội này để nhập vào thị trường của họ. Nền kinh tế của Việt Nam đã tăng trưởng từ 4% - 8% sau khi hồi phục từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á của 1997.The nâng cao mức sống và giáo dục giúp đỡ Việt trong việc cung cấp cơ hội việc làm cho họ. Coca-Cola vào thị trường Việt Nam để tăng cường sự phát triển kinh tế và tạo ra một số cơ hội việc làm cho người dân địa phương. Như tiêu thụ nước ngọt đã giảm ở Mỹ, Coca-Cola là một trong những ngành công nghiệp nước giải khát mà càng tìm cách để mở rộng kinh doanh của họ tại các nước có bao gồm tỷ lệ thu nhập quốc dân cao hơn và dân số khổng lồ (Bloomberg Business tuần mới, năm 2012). Thông tin này cũng cho thấy lý do mà Việt Nam vẫn có thể khuyến khích Coca-Cola để đặt thêm đầu tư vào Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam phụ thuộc vào ngành công nghiệp dầu khí cho tiêu thụ năng lượng tại địa phương của mình và xuất khẩu; nó sẽ gây ra cho nền kinh tế của Việt Nam ổn định hơn và thu hút nhiều công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Điều này cũng thu hút được Coca-cola để vào thị trường Việt Nam vào năm 2004. Việc chi trả cho người lao động ở Việt Nam là khá thấp, do đó, nó thu hút các công ty nước ngoài chuyển vào Việt Nam thay vì thị trường truyền thống như Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan. Những tất cả những lý do đẩy Coca-Cola Việt Nam lựa chọn và thực hiện nó lần đầu tiên di chuyển vào nó để vận hành nhà máy của mình tại đây. Phân tích Lãi bước vào một quốc gia nước ngoài Ổn định chính trị Bước chân vào một quốc gia nước ngoài như Việt Nam có lợi ích và hạn chế của nó. Một trong những lợi thế để vào Việt Nam là sự ổn định chính trị của nó. Do Ông Philippe Delalande (2010), ông có đề cập rằng sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố đó đã giúp Việt Nam theo đuổi chính sách phát triển kinh tế của mình. Trong những người khác xem từ George E. Kobrossy (2013), Tổng Giám đốc Zamil Steel Việt Nam (ZSV) cũng đề cập đến những ưu điểm đó giúp thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến đất nước là ổn định chính trị của Việt Nam, cải cách hành chính và những nỗ lực của mình trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng. Coca-Cola phải đối mặt với vấn đề nhập vào một số nước vài thập kỷ trước đây do các vấn đề chính trị đã xảy ra trong cả nước. Standage (nd) cho rằng Coca-Cola đã không tồn tại ở Liên Xô cũ (Nga), vì họ lo lắng rằng doanh thu sẽ đi chuyển giao cho kho bạc nhà nước cộng sản. Trong khi Webster (nd) đề cập đến rằng Coca-Cola không nhập vào xã hội Pháp vì Coca-Cola là một dấu hiệu của chủ nghĩa tư bản và sự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản và cộng sản trong thời Chiến tranh Lạnh. Coca-Cola là một thương hiệu lớn liên quan rất chặt chẽ với Mỹ thấy mình đang làm phiền đến chính trị, hoặc chỉ ra cho những lời chỉ trích mặc dù họ không cố gắng để có được tham gia vào chính trị, Webster cho biết. Như vậy, thông qua phân tích của chúng tôi, chúng tôi nhận ra Coca-Cola nhập lại thị trường của Việt Nam vì sự ổn định chính trị sau Đổi mới (cải cách) chính sách. Coca-Cola cảm thấy bảo đảm hơn trong việc mở rộng kinh doanh của họ trong một quốc gia chính trị ổn định. Đầu tư trực tiếp nước ngoài Một trong những lợi ích của Coca-Cola là chính phủ Việt cung cấp nhiều ưu đãi đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài, thuế thu nhập doanh nghiệp là thấp so với các nước khác trong Đông Nam Á (tỷ lệ tiêu chuẩn là 28% và lãi suất ưu đãi từ 10% đến 20%). Cục Đầu tư nước ngoài báo cáo rằng do ngày 15 tháng 12 năm 2011 Việt Nam đã thu hút hơn 13.667 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn khoảng RM612 tỷ (Cục Đầu tư nước ngoài, năm 2011). Công ty đầu tư nước ngoài bao gồm Coca-Cola chiếm khoảng 27% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, 35% tổng sản lượng công nghiệp của đất nước, tạo thành 13% GDP, và đóng góp khoảng 25% tổng thu nhập thuế (Báo Đầu tư Việt Nam, 2001). Như vậy, có khoảng US $ 300 triệu là thông báo của Coca-Cola đầu tư vào Việt Nam để nắm bắt những cơ hội tạo ngày càng tăng tại một trong những thị trường tiêu dùng phát triển nhất (Journey Staff, 2012). Theo cam kết của Việt Nam như là một phần của thỏa thuận gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam cung cấp doanh nghiệp nước ngoài trong đó bao gồm Coca-Cola quyền chung để nhập khẩu các sản phẩm và bán cho các nhà phân phối được cấp phép. Quá trình để có được một giấy chứng nhận đầu tư cho công ty nước ngoài là dễ dàng hơn nhiều bây giờ. Chi phí lao động thấp Đất nước này đang đạt được lợi thế cạnh tranh cho ngành công nghiệp sản xuất thâm dụng lao động trên cơ sở mức lương thấp (Meyer, 2005). Trong các nghiên cứu về chi phí lao động, chi phí lao động Nhật Bản trong một tháng là $ 1810, tiếp tục bằng $ 1144 tại Singapore, 82 $ ở Indonesia, và sau đó Việt Nam xếp vị trí thấp thứ hai đó là 49 $ một tháng và làm theo bằng cao nhất là Campuchia với $ 47,36 ( EuroCham, 2010). Coca-Cola đã chọn để thiết lập các văn phòng khu vực tại Việt Nam giúp đỡ Việt Nam chứng minh các lực lượng lao động rộng lớn là cạnh tranh trong thị trường (GLC, 2007). Do thông tin chúng tôi thu thập được, chúng tôi thấy rằng Coca-Cola Việt Nam đầu tư vào Việt Nam để giúp thúc đẩy doanh số bán hàng doanh nghiệp địa phương và tạo ra 500 việc làm mới tại địa phương ở Việt Nam trong khi tổng số lực lượng lao động đạt được lợi ích này là 99 phần trăm của các địa phương Việt (Staff, 2012 ). Điều này sử dụng tỷ lệ phần trăm cao của lực lượng lao động chứng minh rằng Coca-Cola Việt Nam đủ khả năng để thuê lao động địa phương hơn do chi phí lao động thấp hoặc lương thấp trả tiền. Chi phí thấp sản xuất Coca-Cola vào Việt Nam bởi vì một trong những lợi ích là họ có thể được miễn thuế nhập khẩu để xây dựng tài sản cố định, chẳng hạn như máy móc đóng chai, phương tiện vận tải, vật liệu sản xuất mà không được sản xuất tại địa phương. Miễn trừ bổ sung có sẵn đối với nguyên liệu, phụ tùng và nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Doanh thu của Coca-Cola tại miền Trung Việt Nam đã chứng kiến một sự tăng trưởng hai con số trong vài năm qua; ba nhà máy của công ty sản xuất hơn 608 triệu lít mỗi năm ở Việt Nam (Bắc Âu Phát triển Công nghiệp, 2012). Vì vậy, Coca-Cola đồ uống Việt Nam đã đầu tư hơn $ 3.000.000 vào Đà Nẵng dựa trên dây chuyền sản xuất nước đóng chai tinh khiết thứ hai của mình, với công suất lên đến 6.000 chai 500ml mỗi giờ do chi phí sản xuất thấp mà họ đạt được tại Việt Nam. V) Sản phẩm đa dạng đường mà gặp nước giải khát Việt Nam Cần Coca-Cola vào Việt Nam vì họ có thể đáp ứng nhu cầu cho hydrat hóa, dinh dưỡng và giải khát năng lượng cho các khách hàng của họ tại Việt Nam. Coca-Cola có nhiều thương hiệu của sản phẩm tại Việt Nam như Coca-cola, Coca-cola Light, Fanta, Joy, Minute Maid, Dasani, Real Leaf, Samurai, Schweppes và Sprite. Niềm vui là uống nước đóng chai tinh khiết và có thị phần lớn nhất là 32% so với thương hiệu khác mà công ty sản xuất. Coca-Cola có thị phần lớn thứ hai của 23% tiếp tục bởi Sprite với tỷ lệ 18% và Fanta trong đó có 17%. Thương hiệu khác như Samurai có được 5% từ thị trường cổ phiếu trong khi Minute Maid và Schweppes từng chiếm 2,5% (Soft uống-Việt Nam, 2010). Họ cung cấp sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường mục tiêu của họ. Ví dụ, Samurai là rất thích bởi nam giới trưởng thành Việt, những người cần một sự tăng năng lượng. Thức uống năng lượng vitamin này đóng gói được củng cố với sáu loại vitamin cần thiết B và có một hương vị hấp dẫn và mới mẻ với một ga, hương vị ngọt ngào mà kháng cáo cho hợp khẩu vị Việt (Coca Cola Sabco trang chủ). Coca-Cola có thể đáp ứng nhu cầu giải khát Việt Nam cũng như đạt được nhiều lợi nhuận hơn từ họ và tạo thành một win-win tình. Vì vậy, điều này khuyến khích Coca-Cola để sản xuất dòng sản phẩm hơn là đáp ứng nhu cầu và mong muốn của Việt Nam. Những bất cập của việc nhập vào một quốc gia nước ngoài Không thể để tạo ra cửa hàng độc lập của riêng Một trong những thiếu sót của Coca-Cola tại Việt Nam được các công ty nước ngoài một cách hợp pháp không thể nói chung là sở hữu cửa hàng độc lập mà không cần sản xuất trong nước. Nhà nhập khẩu thường sẽ hợp tác với các đối tác địa phương (Nguyễn, 2004). Điều này đã gây ra Coca-Cola không thể sở hữu một cửa hàng độc lập tại Việt Nam, và Coca-Cola đã bắt đầu-up nhà máy đóng chai của mình để kinh doanh tại Việt Nam. Coca-Cola Việt Nam, lãnh đạo nhà sản xuất nước giải khát của đất nước chưa bao giờ công bố lợi nhuận kể từ khi đến ở Việt Nam vào năm 1994. Theo Cục thành phố Hồ Chí Minh Tổng cục Thuế, lỗ lũy kế của Coca-Cola là US $ 180.600.000 mà là lớn hơn so với vốn chủ sở hữu của US $ 141.600.000.
đang được dịch, vui lòng đợi..
