Bề rộng vai trò tự hiệu quả (RBSE) đề cập đến khả năng nhận thức của nhân viên mang ra một tập hợp rộng lớn hơn và chủ động hơn các nhiệm vụ công việc mà mở rộng ra ngoài các yêu cầu kỹ thuật theo quy định (Parker, 1998; Caác tónh, Cepeda-Carrion, & Chin, 2012). Nghiên cứu báo cáo rằng hiện còn RBSE là một yếu tố dự báo mạnh mẽ của các hành vi như làm đề nghị (axtell et al., 2000), giải quyết các hành vi chủ động (Ohly & Fritz, 2007), và chủ động vấn đề (Parker, Williams, Turner, 2006). Ngoài ra, RBSE là một yếu tố dự báo quan trọng của sự đổi mới của nhân viên (axtell et al, 2000;. Siegel & Renko, 2012) và hiệu chủ động (Griffin, Parker, và Neal, 2008). Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tự hiệu quả là một yếu tố dự báo quan trọng của hai loại hành vi chủ động: sáng kiến cá nhân và phụ trách (Morrison & Phelps, 1999). Trong ánh sáng của những phát hiện này, tác giả cho rằng vai trò rộng tự hiệu quả là một biến giải thích quan trọng để cân nhắc khi tham gia vào các hành vi công dân thay đổi theo định hướng.
H1. Một mối quan hệ tích cực tồn tại giữa vai trò rộng tự hiệu quả của một cá nhân (RBSE) và / cô OCB thay đổi định hướng của mình.
1.1. Cảm thấy trách nhiệm cho sự thay đổi mang tính xây dựng (FRCC)
Constructive thay đổi hành vi theo định hướng là có thể phát sinh từ trạng thái tâm lý của chological cảm thấy có trách nhiệm đối với sự thay đổi mang tính xây dựng (FRCC), trong đó đề cập đến "niềm tin của một cá nhân mà người đó là cá nhân obli- gated để mang lại sự thay đổi mang tính xây dựng "(Morrison & Phelps, 1999: 407). Morrison và Phelps (1999) lập luận rằng một mối quan hệ tích cực ists nghiệm giữa cảm giác chịu trách nhiệm cho sự thay đổi mang tính xây dựng và trách taking- Fuller et al (2006) phân tích các tiền thân.. của iors behav- chủ động, được xác định như xây dựng, truyền thông thay đổi định hướng (hành vi giọng nói) và hiệu suất vai trò chủ động (cải tiến liên tục), và kết quả nghiên cứu của họ cho thấy một mối quan hệ tích cực tồn tại được- tính cách chủ động tween và cả hành vi, dựa trên một cá nhân tiếp cận với các nguồn lực, tiếp cận với thông tin chiến lược, và cảm thấy chịu trách nhiệm thay đổi. Cuối cùng, (2007) kết quả của Choi cho thấy tâm lý powerment em- và cảm thấy trách nhiệm để thay đổi hành động như chất trung gian trong lationship lại giữa biến đổi định hướng OCB và các bậc tiền bối trong nghiên cứu của mình.
H2. Một mối quan hệ tích cực tồn tại giữa một cá nhân cảm thấy trách nhiệm cho sự thay đổi mang tính xây dựng và thay đổi hướng OCB mình hay.
Trách nhiệm Felt cho sự thay đổi mang tính xây dựng là một cơ chế chủ động, giải thích các quá trình tâm lý, trong đó yếu tố cấu trúc cơ cấu và xã hội ảnh hưởng đến hành vi chủ động. Tuy nhiên, Parker và Turner (2002) lập luận rằng chủ động động lực không chỉ ngụ ý willing- Ness để nỗ lực nhiều hơn, nhưng cũng sẵn sàng chủ động và linh hoạt áp dụng nỗ lực này. Felt chịu trách nhiệm cho sự thay đổi mang tính xây dựng là một khái niệm năng động hơn so với trách nhiệm nỉ cho cution exe- nhiệm vụ được giao. Do đó, FRCC là một trạng thái tâm lý dễ uốn, phản ánh ý chí để phát huy một nỗ lực lớn hơn, tạo ra một sự cải tiến, phát triển các thủ tục mới, và các vấn đề chính xác một cách structive niệm ủng hộ việc tổ chức. Ngoài việc có thể làm một cái gì đó (RBSE là một trạng thái động lực mà làm cho các cá nhân tin rằng họ có thể làm những việc), một nhà nước tạo động lực thúc đẩy các cá nhân để được- lieve rằng họ có lý do để làm điều gì đó, chẳng hạn như FRCC cũng là nec- essary. Các cá nhân có thể cảm thấy có thể cải thiện các phương pháp làm việc, nhưng không có lý do gì để làm như vậy. Vì vậy, họ cần phải muốn là chủ động hoặc nhìn thấy giá trị kết hợp với việc chủ động để thay đổi một mục tiêu cụ thể (Parker et al., 2010).
H3. Một cá nhân đã cảm nhận trách nhiệm thay đổi (FRCC) diates phần tôi- mối quan hệ giữa vai trò rộng tự hiệu quả (RBSE) và change- OCB theo định hướng.
1.2. Lãnh đạo chuyển đổi: xem xét từng cá nhân
Bản chất thực sự của lãnh đạo chuyển đổi là những nhà lãnh đạo gây ra theo để vượt qua sự mong đợi (Podsakoff et al, 2000; Vega- Vazquez, Cossío, & Martin-Ruiz, 2012.). Kết quả là, lãnh đạo chuyển đổi có tác động quan trọng vào hiệu suất và công dân tổ chức các hành vi ngoài vai trò.
Xem xét Cá nhân, một thành phần của lãnh đạo chuyển đổi, có thể tập trung vào việc thay đổi động cơ đi theo mình, di chuyển chúng để xem xét không chỉ tự lợi ích của họ mà còn là ý nghĩa luân lý và đạo đức của hành động và mục tiêu của họ. Hiệu quả ròng trên các cá nhân là phải xem xét lại các ưu tiên giữa các nhu cầu của họ, khát vọng thành tựu và thách thức sắp tới (Avolio & Bass, 1995; Vila, Perez, & Morillas, 2012). Những cân nhắc nhấn mạnh sự cần thiết của thi- rà soát các mối quan hệ giữa hai xem xét các chiều kích cá nhân của lãnh đạo chuyển đổi (lãnh đạo hỗ trợ và phát triển) và thay đổi theo định hướng hành vi công dân.
Theo Rafferty và Griffin (2004) các nhà lãnh đạo chuyển đổi sẽ hiển thị một số behavio mặt phát triển theo định hướng
đang được dịch, vui lòng đợi..