Chi phí và lợi nhuận của Nuôi tôm: Một hình ảnh so sánh của
Vs. truyền thống Tôm khoa học Nuôi
Lợi nhuận của bất kỳ hệ thống sản xuất phụ thuộc vào cấu trúc chi phí cơ bản và lợi nhuận. Các
chi phí nuôi tôm có thể được chia thành out trả và chi phí được quy gán. Các chi phí trả tiền ra bao gồm giá trị
của tôm giống, giá trị lao động của con người được thuê, chi phí đầu vào khác như cám gạo, vôi, vv, linh tinh
chi phí (ví dụ như sửa chữa và bảo trì, lưới của ao); chi phí của máy kéo để cày đáy ao (nhiên liệu),
lãi trên vốn lưu động, giá trị của máy móc nông nghiệp và thực hiện thuê đất thuê và máy móc,
cho thuê đối với đất thuê trong nuôi tôm, thu đất. Trong trường hợp chi tiêu khoa học nuôi tôm
trên động cơ diesel (hoặc nhiên liệu), chi phí cho thuốc và phân bón, chi phí đầu vào để duy trì chất lượng nước như gạo
cám, đông, đôlômit, vôi tôi, tẩy trắng vv cũng là thành phần của chi phí trả phòng. Các chi phí được gán
bao gồm các giá trị được gán lao động gia đình, quan tâm được gán trên đất thuê thu đất ít hơn và được gán
lãi vốn cố định. Trong trường hợp nuôi tôm tài khoản tôm giống truyền thống cho phần lớn các
chi phí đã thanh toán ra sau bằng cách cho thuê thuê. Thức ăn nuôi tôm chiếm hơn 40% tổng số chi trả chi phí
tiếp theo lãi trên vốn lưu động trong các trường hợp nuôi tôm khoa học. Sự phân bố trả tiền ra
chi phí, tổng chi phí, doanh thu, thu nhập ròng trên chi phí trả tiền ra và thu nhập ròng trên tổng chi phí được
trình bày trong bảng 2. Nó có thể được quan sát thấy rằng trong trường hợp tôm truyền thống canh tác trung bình trả tiền ra
chi phí không thay đổi nhiều qua các nông dân nuôi tôm biên, vừa và nhỏ, dù cho lớn
người nuôi tôm nó là cao hơn một chút. Nhưng chi phí tổng số người nuôi tôm truyền thống được bỏ e khác nhau
qua các lớp mô. Có thể thấy rằng những người nuôi tôm truyền thống biên có tổng chi phí cao nhất của
Rs. Acre 24893per theo sau người nuôi tôm vừa nhỏ, lớn và truyền thống. Đây là có thể là do
việc sử dụng cao hơn của lao động gia đình của người nuôi tôm biên. Trong trường hợp người nuôi tôm khoa học paidout
chi phí nuôi tôm cao nhất đối với người nuôi tôm trung bình (Rs. 333.450 cho mỗi mẫu Anh) và thấp nhất cho
người nuôi tôm nhỏ (Rs. 224.135). Trong trường hợp này sau khi tài khoản ing cho được gán giá tổng chi phí của
các dãy sản xuất tôm từ Rs.275561 mỗi mẫu Anh cho người nuôi tôm khoa học cận biên và cao nhất cho
người nuôi tôm trung bình lên tới Rs. 348.168 cho mỗi mẫu Anh.
Từ bảng 2 rõ ràng là lợi nhuận trên mỗi mẫu có gắn trực tiếp với các kích thước của lớp của
người nông dân trong trường hợp của cả hệ thống nuôi tôm truyền thống và khoa học. Thu nhập ròng trên đã góp ra khỏi
chi phí từ dãy nuôi tôm truyền thống từ Rs.2842 mỗi mẫu Anh cho người nuôi tôm biên Rs.
19.979 cho mỗi mẫu Anh cho người nuôi tôm lớn. Nó có thể được ghi nhận là thu nhập ròng từ nuôi tôm khoa học
tham gia tất cả các nông dân với nhau là cao hơn so với tôm truyền thống gần bốn và một nửa thời gian
nông dân. Nhưng một cái nhìn sâu hơn về các thu nhập ròng trên chi phí trả tiền ra khắp lớp học kích thước của người nuôi tôm rõ
rằng đối với người nuôi tôm khoa học biên, nuôi tôm không phải là như vậy lợi nhuận như các thể loại khác. Các
thu nhập ròng bình quân của nông dân nuôi tôm khoa học biên không khác biệt nhiều so với các đối tác của họ trong
nuôi tôm truyền thống. Nó cũng là thú vị là lợi nhuận ròng trên tổng chi phí là tiêu cực đối với
người nuôi tôm khoa học cận biên
đang được dịch, vui lòng đợi..
