Một mạng nơ-ron nhân tạo (ANN) là một song song một cách ồ ạt phân xử lý tạo ra từ các đơn vị chế biến đơn giản, có một xu hướng tự nhiên cho lưu trữ dựa trên kinh nghiệm kiến thức và làm cho nó có sẵn để sử dụng (Lin và Lee, 1996). Nó qua không tham số hồi qui ước tính gồm có một số yếu tố liên kết với nhau xử lý giữa các dữ liệu đầu vào và đầu ra (Han và Diekmann, 2004). Do học tập tuyệt vời của họ và khả năng khái quát, ANN kỹ thuật đã được áp dụng trong một loạt các lĩnh vực xây dựng, bao gồm ước tính các dự án đánh dấu (Li, năm 1996; Li và tình yêu, năm 1999; Moselhi et al., 1991), dự báo sản xuất xây dựng (Chao và Skibniewski, 1994), dự đoán khả năng áp dụng công nghệ xây dựng mới (Chao và Skibniewski, 1995), mô hình xây dựng ngân sách perfor-mance (Chùa và ctv., 1997), dự đoán hoạt động earthmoving (Shi, 1999), khu dân cư xây dựng dự báo nhu cầu (Goh,năm 2000), dự đoán chi phí dự án (Emsley et al., 2002), mô phỏng thời gian hoạt động (Lu, 2002), dự đoán chi phí sai trong các dự án tái thiết (Attalla và Hegazy, 2003), sự hài lòng của khách hàng thời-ing cấp (Soetanto và châm ngôn, 2004), xác định xây dựng thời gian tự nhiên (Kuźniar và Waszczys-zyn, 2006), và ước tính năng suất thiết bị (Ok và Sinha, 2006), trong số nhiều người khác. Tuy nhiên, cho đến nay không có công việc đã được thực hiện để áp dụng ANN để phân bổ các quyết định trong các dự án xây dựng có nguy cơ.Trong nghiên cứu này, điển hình ba lớp tuyên truyền trở lại ANN mô hình được thiết lập để mô hình cơ chế ra quyết định phân bổ rủi ro. Mỗi người trong số các mô hình ANN bao gồm một đầu vào lớp, một lớp ẩn và một lớp đầu ra. Các lớp đầu vào có sáu nút, đại diện cho các biến độc lập sáu. Các lớp ra có một nút, mà đại diện cho DV duy nhất. Số lượng các nút trong các lớp ẩn đã được xác định bằng cách thử và lỗi để đạt được hiệu suất chính xác hơn của mô hình ANN. Kiến trúc của mô hình ANN được thể hiện trong hình 2. Các chức năng chuyển tiếp
đang được dịch, vui lòng đợi..