3.4 tổng chất rắn hòa tanSự thay đổi trong nội dung rắn hòa tan trong các sản phẩm trong suốt thời gian học tập được thể hiện trong hình 4. Vào cuối khoảng thời gian lí, TSS trong mẫu CaCl2 được coi là thấp hơn kiểm soát (nước) trong cà chua, bí và tím, mặc dù ở nồng độ khác nhau. Trong cà chua, TSS 2,6% vào ngày 9, ít nhất được ghi lại trong sản phẩm hydrocooled với 1,0% CaCl2. Bí và Phi tím có TSS ít nhất trong 1,5% CaCl2 đối xử mẫu với 4,7% và 6,4% tương ứng. Cà rốt có TSS ít nhất là năm 0% CaCl2 ngày 9; với TSS ngày càng tăng với sự gia tăng nồng độ CaCl2 trong nước.Sự gia tăng trong TSS trong lưu trữ là do các phân tích về tinh bột thành đường hoặc thủy phân bào polysaccharides trong chín ở xung hạng quả tức là cà chua (Azene et al., 2014 và Youssef et al., 2012) và chuối (Khanbarad và ctv., năm 2012). Tuy nhiên, sự gia tăng trong TSS xảy ra trong sản xuất climacteric có thể được liên kết với mất nước (Hailu và ctv., 2008), hoặc tăng các phản ứng trao đổi chất do cuộc xâm lược bởi vi khuẩn hoặc chấn thương lạnh (Khanbarad và ctv., năm 2012). TSS thấp với Pre-làm lạnh có thể do làm chậm các hoạt động trao đổi chất. Lệ TSS, chậm tăng sản xuất hydrocooled và lưu giữ tại thấp nhiệt độ là do tác dụng của precooling mà giảm lĩnh vực nhiệt từ trái cây, hạn chế các hoạt động hô hấp và ức chế mất nước. Một hiện tượng tương tự đã được báo cáo bởi Near et al. (2014) khi xoài là hydrocooled bằng cách sử dụng nước 8 0C trong 8 giờ và được lưu trữ tại 8 0C. Cà rốt, bí và Phi tím đó là hàng hóa climacteric, TSS xây dựng trong lưu trữ là do sản phẩm giảm cân, dẫn đến mất độ ẩm. Mối tương quan tích cực giữa cân và TSS tương tự như quan sát trong nghiên cứu này đã được báo cáo bởi Hailu et al. (2008) trong cà rốt được lưu trữ và dâu tây bởi Hernandez-Munoz et al. (2008).
đang được dịch, vui lòng đợi..
