Để tiến hành nghiên cứu này, hai loại phương pháp bao gồm cả định lượng và định tính có thể được xem xét. Theo Sogunro (2012), nghiên cứu định lượng, được gọi là nghiên cứu thực nghiệm được định nghĩa là một cuộc thẩm vấn vào vấn đề nhân hay xã hội với cơ sở thử nghiệm một lý thuyết mà là biến - sáng tác, với phân tích của thủ tục thống kê và số biện pháp, nhằm mục đích xác định xem của lý thuyết khái quát tiên đoán giữ đúng (p.3). Nghiên cứu định lượng là một phương pháp nhằm tìm hiểu các vấn đề xã hội hay con người bằng cách đặt câu hỏi cho một số lượng lớn người dân. Thực hiện trong những hoàn cảnh tự nhiên, nó liên quan đến việc sử dụng từ ngữ để xây dựng một bức tranh toàn diện và phức tạp để có được những ý kiến của những người tham gia. Nghiên cứu định tính được xem như là một quá trình thẩm vấn về vấn đề con người, xã hội hiểu biết với các cơ sở của việc tạo ra một phức tạp, cảnh toàn diện, để thông báo quan điểm của người tham gia và nó được thực hiện trong bối cảnh thực (p.3). Nghiên cứu định tính là tập trung vào những đặc điểm, ý nghĩa, khái niệm cũng như định nghĩa các đặc trong thời hạn của con người, sự kiện, kinh nghiệm, tương tác và các nền văn hóa hoặc các cài đặt. Các yếu tố bao gồm những gì, khi nào, như thế nào, ai, ở đâu có thể được gọi từ "chất lượng". Do đó nghiên cứu định tính đề cập đến các khái niệm, định nghĩa hay ý nghĩa, biểu tượng, ẩn dụ, mô tả những thứ '. (Berg, 2007, p.3). Ngoài ra, nghiên cứu định tính không tập trung vào không phải giới thiệu số cũng không phải mối quan hệ của họ. Ngược lại, đây là trọng tâm của nghiên cứu định lượng. Theo Worrall (2000, p.354), các đặc tính sự hiểu biết nhất của nghiên cứu định lượng là nó có thể tạo ra chính xác cũng xác nhận các dự đoán. Tuy nhiên, trong khi điểm mạnh của phương pháp định lượng là có thể dự đoán những gì sắp đến, nó cũng quan trọng để xem xét những điểm biên và mong manh của phương pháp này trong khoa học xã hội.
Eski (2012) thực hiện một nghiên cứu trong đó phương pháp định lượng có thể được xem như là một phương pháp nguyên tắc của một nghiên cứu về độ tương phản và compareison giữa tác động của ý kiến phản hồi và ý kiến phản hồi của giáo viên. Trong nghiên cứu này, những người tham gia được chia thành hai nhóm. Một nhóm nhận được phản hồi từ giáo viên và người kia nhận được thông tin phản hồi từ bạn của họ tất cả các ý kiến đóng góp cho dự thảo đầu tiên được thu thập và đếm. Kết quả là trong số năm bài tập, năm 1235 điều chỉnh chứa 627 chỉnh xem xét và sửa chữa 268 phản hồi của giáo viên. Trong số 627 điều chỉnh bởi các đồng nghiệp, lên đến 603 chỉnh sửa đã được cho là có hiệu quả. Sau đó các phiên bản của hai nhóm đã được phân tích và các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng chất lượng giữa các phiên bản của nhóm nhận được thông tin phản hồi của giáo viên và của các nhóm nhận được ý kiến phản hồi là cùng cấp. Vì vậy, trong kết luận của ông, Eski tuyên bố rằng, trong một bối cảnh văn bản, phản ứng đồng đẳng có thể được sử dụng như là một thay thế hữu ích của phản ứng giáo viên.
đang được dịch, vui lòng đợi..
