nuôi hiệu quả là rất quan trọng trước hết là chỉ có 14% nguồn cấp dữ liệu được tích hợp trực tiếp vào tôm sinh khối, với 86% đóng vai trò là phân bón. Điều này sau đó làm giảm, cho tăng đến hòa tan vàhạt vật chất dinh dưỡng trong cột nước và tăng tải hữu cơ để các trầm tích,một trong những lý do chính đề xuất giảm năng suất Ao (Lin năm 1989; Nhanh &Lannan 1992; Wang & nhanh năm 1992). Thứ hai, các mức giá cao của nguồn cấp dữ liệu (chất hữu cơ)đầu vào thay đổi hệ thống Ao từ outotrophic đến dị sản xuất (vụn), vàdinh dưỡng phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn cấp dữ liệu ứng dụng (Fast & Lannan năm 1992). Điều này có thể ở tum dẫnvấn đề với quản lý của oxy trong hệ thống vì vượt quá sự hô hấpquá trình quang hợp (Fast & Lannan năm 1992). Thứ ba, nguồn cấp dữ liệu và cho ăn chiếm 55-60%chi phí hoạt động chuyên sâu tôm nuôi (Csavas 1990; Primavera năm 1992). Vớinguồn cấp dữ liệu chi phí tại Bt 30 mỗi kg (£ = Bt 37, 1994) và 86% nguồn cấp dữ liệu chưa được tích hợpvào tôm, có là một lãng phí £6100 và £12200 mỗi ha cho mỗi chu kỳ cho L và HAo tương ứng. Trong các thử nghiệm tương tự, Wyban et al. (1988) báo cáo rằng về phía cuốivăn hóa chu kỳ trong siêu sâu tôm ao, 50% hoặc nhiều hơn 670 kg/ngày của nguồn cấp dữ liệuáp dụng không trực tiếp tiêu thụ, dẫn đến thiệt hại lên đến £26400 mỗi hecta mỗi chu kỳ.Luồng nạp này không phải là bị mất hoàn toàn, vì nó kích thích sản xuất tự nhiên. Bằng cách sử dụng tôm nuôilàm phân bón, Tuy nhiên, là không kinh tế và kém hiệu quả (Clifford 1992) và có thể quá tảinăng lực của Ao để xử lý các mức độ chất dinh dưỡng (Boyd, 1992). Hơn nữa,những thiệt hại của chất dinh dưỡng từ thực phẩm, 430-860kg/ha/chu kỳ N và 93-184kg/ha/chu kỳP cho L và H Ao tương ứng, được thải ra từ các ao để tác động vào cácmôi trường.
đang được dịch, vui lòng đợi..
