Studies related to knowledge-intensive SMEs (Chetty and Campbell-Hunt, 2004;
Coviello and Munro, 1997; Moen et al., 2004; Spence, 2003) have focused mainly on
MD
46,2
188
qualitative case studies and evaluated psychic distances between countries by using
the concept of Johanson and Vahlne (1977) without trying statistically measure psychic
or cultural distance. The common finding in these studies has been that SMEs favor
countries with a low psychic distance when they start to internationalize their
operations. For instance, the study of Chetty and Campbell-Hunt (2004) on SMEs in
New Zealand proposed that entrepreneurial firms prefer countries within a low psychic
distance (such as Australia and the UK). This finding is also consistent with other case
studies (Coviello and Munro, 1997; Moen et al., 2004; Spence, 2003) and surveys (Bell,
1995). The reasons why knowledge-intensive SMEs favor countries with a low psychic
distance include limited resources, market knowledge, and network relationships (Bell,
1995; Coviello and Munro, 1997). Although these studies (Chetty and Campbell-Hunt,
2004; Coviello and Munro, 1997; Moen et al., 2004; Spence, 2003) have investigated only
the initial market entries, we can assume that target countries where cultural values
(even culture is only one dimension of the psychic distance as noted in Dow and
Karunaratna (2006)) are similar with the home country are easier to operate and
increase the attractiveness of that country. Thus, we hypothesize:
H1. Cultural distance is negatively related to market entry decision of software
SMEs.
Geographical distance and target country selection
Geographical distance has been found to be a significant factor when a firm selects its
target countries; a short geographical distance can often be equated with a familiar
business environment and lower operation costs (Chetty, 1999; Clark and Pugh, 2001;
Dow, 2000; Luostarinen, 1979). In software industry, products itself can very often be
delivered around the world without any significant distribution costs making physical
distribution a less important. However, in many cases, software products still require
an intensive cooperation with customers in pre- and after-sales phases (Ojala and
Tyrva¨inen, 2006). Hence, studies related to internationalization of software firms (Bell,
1995; Coviello and Munro, 1997; Moen et al., 2004; Ojala and Tyrva¨inen, 2007a) have
found evidence that software firms favor nearby countries in their internationalization
process. The study of Bell (1995) which included 88 small software firms from Finland,
Ireland, and Norway found that, for instance, Finnish’ firms entered first to Sweden,
Russia, and Norway whereas Norwegian’ firms entered first to Sweden, UK, Finland,
and Holland. These findings indicate that geographical proximity is an important
determinant when software firms select their target countries. On the other hand, the
study of Terpstra and Yu (1988) failed to find support for this. Their results, based on a
sample of US advertising agencies, indicate that these firms tend to favor countries
with a large market size instead of geographical proximity. However, in line with those
earlier studies investigating to the internationalization of software firms, we
hypothesize:
H2. Geographical distance is negatively related to market entry decision of
software SMEs.
Country risk and target country selection
The level of country risk has been recognized as having a major impact on market
entry decision (Ellis and Pecotich, 2001; Miller, 1992; Quer et al., 2007, among others).
Market entry
decisions
189
Generally, firms avoid making direct investments to counties with a greater risk level
(Quer et al., 2007; Rothaermel et al., 2006) and use entry modes, which do not require
high investments (Shrader et al., 2000). In his study, Brouthers (1995) found a
significant relationship between the perceived risk in a target country and choice of
entry mode in the software industry. Firms that perceived a higher level of risk favored
independent entry modes such as licensing instead of integrated entry modes such as
wholly owned subsidiaries. These findings are in line with Shrader et al. (2000)
investigating the trade-offs between country risk and entry mode selection by US
international new ventures. In addition, the study of Ellis and Pecotich (2001) also
emphasizes the strong impact that risk and uncertainty have on managers’ market
entry decision in SMEs. The conceptual study of Gregorio (2005), on the other hand,
showed that entrepreneurial firms can use various strategies and exploit uncertainty
and risk in the target country as an opportunity. However, in line with earlier empirical
studies, we hypothesize that firms tend to avoid direct business operations in countries
with a high risk level.
H3. Country risk is negatively related to market entry decision of software SMEs.
Market size and target c
Các nghiên cứu liên quan đến kiến thức chuyên sâu SME (Chetty và Campbell-Hunt, năm 2004;Coviello và Munro, năm 1997; Moen et al, 2004; Spence, 2003) đã tập trung chủ yếu vàoMD46,2188chất lượng nghiên cứu trường hợp và đánh giá tâm linh khoảng cách giữa các quốc gia bằng cách sử dụngkhái niệm về Johanson và Vahlne (1977) mà không cần cố gắng thống kê biện pháp tâm linhhoặc khoảng cách văn hóa. Tìm kiếm phổ biến trong các nghiên cứu đã là rằng lợi cho DNN & vCác quốc gia với một khoảng cách tâm linh thấp khi họ bắt đầu quốc tế hóa của họhoạt động. Ví dụ, nghiên cứu của Chetty và Campbell-Hunt (2004) vào DNN & v trongNew Zealand đã đề xuất rằng các công ty kinh doanh thích nước trong vòng một tâm linh thấpkhoảng cách (như Úc và Vương Quốc Anh). Tìm kiếm này cũng là phù hợp với các trường hợp khácnghiên cứu (Coviello và Munro, năm 1997; Moen et al, 2004; Spence, 2003) và khảo sát (Bell,Năm 1995). lý do tại sao kiến thức chuyên sâu DNVVN ưu tiên quốc gia với một tâm linh thấpkhoảng cách bao gồm các nguồn lực hạn chế, kiến thức thị trường và mạng lưới quan hệ (Bell,năm 1995; Coviello và Munro, 1997). Mặc dù các nghiên cứu về (Chetty và Campbell-Hunt,năm 2004; Coviello và Munro, năm 1997; Moen et al, 2004; Spence, 2003) có điều tra chỉcác mục nhập thị trường ban đầu, chúng ta có thể giả định rằng nhắm mục tiêu các quốc gia nơi văn hóa giá trị(ngay cả văn hóa là chỉ có một kích thước của khoảng cách tâm linh như lưu ý ở Dow vàKarunaratna (2006)) là tương tự với các nhà nước dễ dàng hơn để hoạt động vàlàm tăng sự hấp dẫn của quốc gia đó. Vì vậy, chúng tôi đưa ra giả thuyết:H1. Khoảng cách văn hóa tiêu cực liên quan đến thị trường quyết định nhập cảnh của phần mềmDNN & v.Địa lý từ xa và mục tiêu lựa chọn quốc giaKhoảng cách địa lý đã được tìm thấy là một yếu tố quan trọng khi lựa chọn một công ty của mìnhmục tiêu quốc gia; một khoảng cách địa lý ngắn thường có thể được tương đương với một tên tươngmôi trường kinh doanh và chi phí hoạt động thấp hơn (Chetty, 1999; Clark và Pugh, 2001;Dow, năm 2000; Luostarinen, 1979). Trong ngành công nghiệp phần mềm, sản phẩm chính nó có thể rất thường xuyênđược gửi trên khắp thế giới mà không có bất kỳ chi phí đáng kể phân phối làm cho vật lýphân phối ít quan trọng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sản phẩm phần mềm vẫn yêu cầumột hợp tác chuyên sâu với các khách hàng ở trước và sau bán hàng giai đoạn (Ojala vàTyrva¨inen, 2006). Do đó, các nghiên cứu liên quan đến quốc tế của công ty phần mềm (Bell,năm 1995; Coviello và Munro, năm 1997; Moen et al, 2004; Ojala và Tyrva¨inen, 2007a) cótìm thấy bằng chứng rằng các công ty phần mềm ưu gần đó quốc tế của các quốc giaquá trình. Nghiên cứu của Bell (1995) bao gồm các công ty phần mềm nhỏ 88 từ Phần Lan,Ai-Len, và Na Uy tìm thấy đó, ví dụ, tiếng Phần Lan ' nhập lần đầu tiên tới Thụy Điển, các công tyNga và Na Uy trong khi Na Uy ' công ty nhập lần đầu tiên tới Thụy Điển, Anh, Phần Lan,và Hà Lan. Những phát hiện này cho thấy sự gần gũi địa lý là một điều quan trọngyếu tố quyết định khi các công ty phần mềm chọn quốc gia mục tiêu của họ. Mặt khác, cácnghiên cứu Terpstra và Yu (1988) không thể tìm thấy hỗ trợ cho việc này. Kết quả của họ, dựa trên mộtmẫu Hoa Kỳ quảng cáo các cơ quan, chỉ ra rằng những công ty có xu hướng để ưu tiên quốc giavới một kích thước lớn thị trường thay vì sự gần gũi địa lý. Tuy nhiên, phù hợp với những ngườisớm nghiên cứu điều tra quốc tế của các công ty phần mềm, chúng tôiđưa ra giả thuyết:H2. Khoảng cách địa lý có liên quan tiêu cực đến thị trường quyết định nhập cảnhphần mềm DNN & v.Lựa chọn quốc gia rủi ro và mục tiêu quốc giaMức độ nguy cơ đất nước đã được công nhận là có một tác động lớn trên thị trườngquyết định nhập cảnh (Ellis và Pecotich, 2001; Miller, 1992; Quer et al., 2007, trong số những người khác).Mục nhập thị trườngquyết định189Nói chung, công ty tránh thực hiện các đầu tư trực tiếp hạt với một mức độ rủi ro lớn hơn(Quer et al., 2007; Rothaermel et al., 2006) và chế độ nhập, mà không cần sử dụngđầu tư cao (Bitten và ctv., 2000). Trong nghiên cứu của ông, Brouthers (1995) thấy mộtmối quan hệ quan trọng giữa rủi ro nhận thức trong một quốc gia mục tiêu và lựa chọnnhập các chế độ trong ngành công nghiệp phần mềm. Công ty nhận một mức độ cao của các rủi ro được ưa chuộngđộc lập mục chế độ như cấp giấy phép thay vì tích hợp chế độ nhập cảnh nhưhãng thuộc sở hữu công ty con. Những phát hiện này là phù hợp với Bitten et al. (2000)điều tra thương mại-offs giữa quốc gia rủi ro và nhập chế độ lựa chọn của MỹQuốc tế liên doanh mới. Trong ngoài ra, các nghiên cứu của Ellis và Pecotich (2001) cũngnhấn mạnh tác động mạnh mẽ có rủi ro và sự không chắc chắn vào quản lý thị trườngnhập các quyết định trong lĩnh vực DNNVV. Nghiên cứu khái niệm của Gregorio (2005), mặt khác,cho thấy rằng các công ty kinh doanh có thể sử dụng chiến lược khác nhau và khai thác sự không chắc chắnvà rủi ro trong các quốc gia mục tiêu như là một cơ hội. Tuy nhiên, ở phù với kinh nghiệm trước đónghiên cứu, chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng công ty có xu hướng tránh hoạt động trực tiếp kinh doanh trong nướcvới một mức độ rủi ro cao.H3. Nguy cơ đất nước tiêu cực liên quan đến thị trường quyết định nhập cảnh của phần mềm DNN & v.C kích thước và mục tiêu thị trường
đang được dịch, vui lòng đợi..