thành Cổ LoaThành Cổ Loa, trước hết là một Kinh thành đồng thời là một dịch - thành Cổ LoaThành Cổ Loa, trước hết là một Kinh thành đồng thời là một Việt làm thế nào để nói

thành Cổ LoaThành Cổ Loa, trước hết

thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa, trước hết là một Kinh thành đồng thời là một quân thành, một Thị thành.
Kinh thành Cổ Loa thời An Dương Vương – Kinh đô của nước Âu Lạc, nơi đặt bộ máy triều chính. Đó là một Kinh thành với dáng vẻ của những Kinh đô “tam trùng thành quách” mà các thời phong kiến về sau cũng đã được hình dung ra: vua và hoàng gia ở tại thành Nội, các quan văn quan võ và quân đội ở tại thành Trung, dân chúng ở thành Ngoại. Kiến trúc cung đình mọc lên, không đến nỗi lộng lẫy vàng son xa hoa như các kinh thành thời sau nhưng cũng đủ các chi tiết vật thể: “Nền nhà lát gạch kẻ hoa văn, mái lợp ngói ống và ngói bản. Ngói có đóng đinh và đỉnh ngói cũng nặn bằng đất sét nung, đầu đỉnh vẽ hoa văn trang trí. Diềm mái chạy một hàng đầu ngói ống với các loại hoa văn trang trí hình mây cuốn …”.
Những vòng thành Cổ Loa khoanh lại đã tạo nên một căn cứ quân sự – một Quân thành – có địa vị quốc đô, hay đúng hơn một Kinh thành kiêm cả chức năng Quân thành. Đó là một thực tế sáng giá ở Cổ Loa thời An Dương Vương.
Thị thành Cổ Loa thời An Dương Vương cũng là mang tính chất đặc trung ở thời kỳ này, mới được nhận diện cho phù hợp với các dẫn liệu ngày càng thấy rõ hơn ở Cổ Loa. Đó là dấu tích của hai khu vực sản xuất thủ công: luyện kim – đúc đồng, không những có quy mô lớn, mà còn chuyên hóa trong việc sản xuất các chế phẩm.
Từ Cổ Loa hình thành con đường vận chuyển, buôn bán đường thủy, trao đổi với các nơi, tập trung từ Đầm Cả – Vườn Thuyền Ao Mắm … Và chợ Cổ Loa thời An Dương Vương cũng đã được thể hiện, đó là chợ Sa, đến ngày nay vẫn phồn thịnh…
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và Kinh đô; đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như dưới nước khi tác chiến.
Với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống của dân thường. Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo và phân hóa giai cấp hơn thời các Vua Hùng.
Là một tòa thành cổ nhất còn để lại nhiều dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gồm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương.
Hàng năm, vào ngày 6 tháng Giêng, cư dân Cổ Loa tổ chức lễ hội trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành và tạo dựng lên khu di tích Cổ Loa.
Từ những đặc điểm trên cho thấy Cổ Loa là một thành cổ ra đời từ thế kỷ thứ III Tr.CN do Thục An Dương Vương khởi dựng. Tích hợp vào thủ đô Hà Nội thời bây giờ, Cổ Loa vừa làm tăng sự lâu đời của đô thị Hà Nội thêm hàng nghìn tuổi, vừa bổ sung cho vị trí và vai trò trung tâm đầu não, phồn thịnh của miền đất thượng kinh này. Những tính chất đặc trung cho một thời vàng son của thành cổ: Kinh thành, Quân thành, Thị thành cổ đại, cùng với những giá trị của một quá trình rất lâu dài đấu tranh bảo vệ – bảo tồn bản sắc – đã làm tôn lên giá trị của Cổ Loa và Thăng Long ngàn năm tuổi./.


Văn miếu quốc tử giám
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, các bậc Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An, người thầy đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Quốc Tử Giám được xây dựng năm 1076 dưới triều vua Lý Nhân Tông, là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước, là trường đại học đầu tiên ở nước ta.
VM-QTG nằm phía Nam thành Thăng Long (nay là Hà Nội), quay mặt về hướng Nam với tổng diện tích 55.027m2 gồm Hồ Văn, vườn Giám và Nội tự. Nội tự được chia làm năm khu vực: Khu thứ nhất từ cổng Văn Miếu tới cổng Đại Trung; khu thứ hai nổi bật với Khuê Văn Các, một công trình kiến trúc độc đáo được xây dựng năm 1805 với kiến trúc gỗ, bốn mặt có cửa sổ tròn và những con tiện tỏa ra tứ phía tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng; khu thứ ba là nơi lưu giữ bia tiến sĩ được dựng từ năm 1484; khu thứ tư thờ Khổng tử và bài vị của 72 vị học trò xuất sắc của Khổng Tử và thờ Chu Văn An, Tư nghiệp Quốc Tử Giám; khu thứ năm là nhà Thái Học, vốn là Quốc Tử Giám xưa, trường đại học quốc gia đầu tiên ở nước ta.
Các công trình kiến trúc của Văn Miếu được dựng bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hài theo phong cách nghệ thuật của các triều đại Lê, Nguyễn và những hàng cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi.
Nhằm tôn vinh truyền thống văn hóa giáo dục của Việt Nam, công trình Thái Học được xây dựng vào năm 2000 trên nền của QTG xưa (Thái Học đường) với diện tích mặt bằng hơn 6000m2


Chùa một cột
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa được xây dựng vào mùa Đông tháng 10 Âm lịch nǎm Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo 1 (1409) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa tay dắt Vua lên toà. Khi tỉnh dậy Vua nói với bề tôi và nhà sư Thiền Tuệ khuyên Vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất, với đỉnh cột là tượng Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen. Lối kiến trúc này cho phép liên tưởng đến cấu tạo của các kinh chàng (Thạch chàng/Cột kinh) - một loại kiến trúc Phật giáo, thường được dựng lên để kiến tạo công đức.
Khi chùa khánh thành, các sư chay đàn, tụng kinh cầu nhà vua sống lâu, vì thế chùa còn có tên chữ là chùa Diên Hựu, có nghĩa là hạnh phúc dài lâu. Hàng năm cứ đến ngày 8/4 Âm lịch, Vua lại đến chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, Vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội. Năm 1106, chùa được Vua Lý Nhân Tông cho trùng tu mở rộng, trở thành một quần thể kiến trúc lớn. Riêng kinh chàng trước sân chùa được thêm vào những nét mới. Kinh chàng được đặt giữa một hồ vuông thả sen gọi là hồ Linh Chiểu, trên đỉnh cột là tòa sen mạ vàng. Giữa tòa sen là ngôi điện sơn màu tía, sườn nóc điện có gắn hình tượng chim thần để trang trí và tỵ tà. Trong điện đặt tượng Phật Quan Âm mạ vàng.
Trải bao năm tháng, Chùa Một Cột được trùng tu, phục dựng nhiều lần qua các thời Trần, Hậu Lê, Nguyễn. Năm 1954, trước khi rút khỏi Hà Nội, quân Pháp đặt thuốc nổ phá Chùa Một Cột, chùa chỉ còn lại cây cột với mấy xà gỗ. Năm 1955, Bộ Văn hóa cho trùng tu Chùa Một Cột và giao cho kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng đảm nhiệm.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Thành Cổ LoaThành Cổ Loa, trước hết là một Kinh thành đồng thời là một quân thành, một Thị thành.Kinh thành Cổ Loa thời An Dương Vương-Kinh đô của nước Âu Lạc, nơi đặt bộ máy triều chính. Đó là một Kinh thành với dáng vẻ của những Kinh đô "tam trùng thành quách" mà các thời phong kiến về sau cũng đã được chuyển dung ra: vua và hoàng gia ở tại thành Nội, các quan văn quan võ và quân huấn ở tại thành Trung, dân chúng ở thành Ngoại. Kiến trúc cung đình mọc lên, không đến nỗi lộng lẫy vàng con trai xa hoa như các kinh thành thời sau nhưng cũng đủ các chi tiết công Bulgaria: "Nền nhà lát gạch sống hoa văn, mái lợp ngói ống và ngói bản. Ngói có Third đinh và đỉnh ngói cũng nặn bằng đất sét nung, đầu đỉnh vẽ hoa văn trang trí. Diềm mái chạy một hàng đầu ngói ống với các loại hoa văn trang trí chuyển mây cuốn... ".Những vòng thành Cổ Loa khoanh lại đã chức nên một căn cứ quân sự-một Quân thành-có địa vị quốc đô, hay đúng hơn một Kinh thành kiêm đoàn chức năng Quân thành. Đó là một thực tế dự giá ở Cổ Loa thời An Dương Vương.Thị thành Cổ Loa thời An Dương Vương cũng là mang tính chất đặc trưng ở thời kỳ này, mới được nhận diện cho phù hợp với các dẫn suất ngày càng thấy rõ hơn ở Cổ Loa. Đó là dấu tích của hai khu vực ở cạnh thủ công: luyện kim-đúc đồng, không những có quy mô lớn, mà còn chuyên hóa trong việc ở cạnh các chế phẩm.Từ Cổ Loa chuyển thành con đường vận chuyển, buôn bán đường thủy, trao đổi với các nơi, tổ trung từ đầm đoàn-Vườn Thuyền Ao Mắm... Và chợ Cổ Loa thời An Dương Vương cũng đã được mùa hiện, đó là chợ Sa, đến ngày nay vẫn phồn thịnh...Về mặt quân sự, thành Cổ Loa Bulgaria hiện sự dự chức độc đáo của người Việt tại trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là căn cứ phòng thủ vững chắc tiếng bảo vệ nhà vua, triều đình và Kinh đô; Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy bình cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nội dễ dàng, thủy bình có Bulgaria phối hợp cùng bộ bình tiếng vận động trên bộ cũng như dưới nước khi NXB chiến.Với sự phân cách phần khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống của dân thường. Xã hội đã có sự phân hóa giàu phối và phân hóa giai cấp hơn thời các Vua Hùng.Là một tòa thành cổ nhất còn tiếng lại nhiều dấu tích, Cổ Loa trở thành một di ở văn hóa, một bằng chứng về sự dự chức, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gồm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, lao hồi chắc chắn và nhất là địa chuyển hiểm trở ngoằn ngoèo, tất đoàn những ban làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương.Hàng năm, vào ngày 6 tháng Giêng, cư dân Cổ Loa tổ chức lễ hội trang trọng tiếng tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành và chức dựng lên khu di tích Cổ Loa.Từ những đặc điểm trên cho thấy Cổ Loa là một thành cổ ra đời từ thế kỷ thứ III Tr.CN làm Thục An Dương Vương lớn dựng. Tích hợp vào thủ đô Hà Nội thời bây giờ, Cổ Loa vừa làm tăng sự lâu đời của đô thị Hà Nội thêm hàng nghìn tuổi, các vừa bổ sung cho vị trí và vai trò trung tâm đầu não, phồn thịnh của miền đất thượng kinh này. Những tính chất đặc trưng cho một thời vàng son của thành cổ: Kinh thành, Quân thành, Thị thành cổ đại, cùng với những giá trị của một quá trình rất lâu 戴思杰 tác tranh bảo vệ-bảo tồn bản sắc-đã làm tôn lên giá trị của Cổ Loa và Thăng Long ngàn năm tuổi. /.Văn miếu quốc nên phẫnVăn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng bà, các bậc hiến triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc nên phẫn Chu Văn An, người thầy đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Quốc nên phẫn được xây dựng năm 1076 dưới triều vua Lý Nhân Tông, là nơi đào chức nhân tài cho đất nước, là trường đại học đầu tiên ở nước ta.VM-QTG nằm phía Nam thành Thăng Long (nay là Hà Nội), quay mặt về hướng Nam với tổng diện tích 55.027m2 gồm Hồ Văn, vườn táng và Nội tự. Nội tự được chia làm năm khu vực: Khu thứ nhất từ cổng Văn Miếu tới cổng đại Trung; khu thứ hai nổi bật với Khuê Văn Các, một công trình kiến trúc độc đáo được xây dựng năm 1805 với kiến trúc gỗ, bốn mặt có cửa sổ tròn và những con tiện tỏa ra tứ phía tượng trưng cho chuyển ảnh sao Khuê tỏa dự; khu thứ ba là nơi lưu giữ bia tiến người được dựng từ năm 1484; khu thứ tư thờ Khổng bà và hai vị của 72 vị học trò cạnh sắc của Khổng bà và thờ Chu Văn An, nghiệp Tư Quốc nên phẫn; khu thứ năm là nhà Thái Học, vốn là Quốc nên phẫn xưa, trường đại học quốc gia đầu tiên ở nước ta.Các công trình kiến trúc của Văn Miếu được dựng bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi lên theo phong cách nghệ thuật của các triều đại Lê, Nguyễn và những hàng cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi.Nhằm tôn vinh truyền thống văn hóa giáo dục của Việt Nam, công trình Thái Học được xây dựng vào năm 2000 trên nền của QTG xưa (Thái Học đường) với diện tích mặt bằng hơn 6000m 2Chùa một cột Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa được xây dựng vào thí đông tháng 10 liveshow lịch nǎm Kỷ QH, niên hiệu Sùng Hưng đại Bảo 1 (1409) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Phật Quan đảm trên toa sen đưa tay dắt Vua lên toa. Khi tỉnh dậy Vua đảm với bề tôi và nhà sự Thiền Tuệ khuyên Vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất, với đỉnh cột là tượng Phật Quan đảm ngồi trên tòa thượng nghị sĩ Lối kiến trúc này cho phép liên tưởng đến cấu chức của các kinh chàng (Thạch chàng/Cột kinh) - một loại kiến trúc Phật giáo, thường được dựng lên tiếng kiến chức công đức.Khi chùa khánh thành, các sự chay đàn, tụng kinh cầu nhà vua sống lâu, vì thế chùa còn có tên chữ là chùa Diên Hựu, có nghĩa là hạnh phúc 戴思杰 lâu. Hàng năm cứ đến ngày 8/4 liveshow lịch, Vua lại đến chùa làm lễ mẹ Phật. Các nhà sự và nhân dân kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ mẹ đầu là lễ phóng sinh, Vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội. Năm 1106, chùa được Vua Lý Nhân Tông cho trùng tu mở rộng, trở thành một quần Bulgaria kiến trúc lớn. Riêng kinh chàng trước sân chùa được thêm vào những nét mới. Kinh chàng được đặt giữa một hồ vuông thả sen gọi là hồ Linh Chiểu, trên đỉnh cột là tòa sen mạ vàng. Giữa tòa sen là ngôi điện sơn màu tía, sườn nóc điện có gắn chuyển tượng chim thần tiếng trang trí và tỵ tà. Trong điện đặt tượng Phật Quan đảm mạ vàng.Trải bao năm tháng, Chùa Một Cột được trùng tu, tên dựng nhiều lần qua các thời Trần, tỉnh Hậu Lê, Nguyễn. Năm 1954, trước khi rút khỏi Hà Nội, quân Pháp đặt thuốc nổ phá Chùa Một Cột, chùa chỉ còn lại cây cột với mấy xà gỗ. Năm 1955, Bộ Văn hóa cho trùng tu Chùa Một Cột và giao cho kiến trúc sự Nguyễn Bá Lăng đảm nhiệm.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa, trước hết là một Kinh thành đồng thời là một quân thành, một Thị thành.
Kinh thành Cổ Loa thời An Dương Vương – Kinh đô của nước Âu Lạc, nơi đặt bộ máy triều chính. Đó là một Kinh thành với dáng vẻ của những Kinh đô “tam trùng thành quách” mà các thời phong kiến về sau cũng đã được hình dung ra: vua và hoàng gia ở tại thành Nội, các quan văn quan võ và quân đội ở tại thành Trung, dân chúng ở thành Ngoại. Kiến trúc cung đình mọc lên, không đến nỗi lộng lẫy vàng son xa hoa như các kinh thành thời sau nhưng cũng đủ các chi tiết vật thể: “Nền nhà lát gạch kẻ hoa văn, mái lợp ngói ống và ngói bản. Ngói có đóng đinh và đỉnh ngói cũng nặn bằng đất sét nung, đầu đỉnh vẽ hoa văn trang trí. Diềm mái chạy một hàng đầu ngói ống với các loại hoa văn trang trí hình mây cuốn …”.
Những vòng thành Cổ Loa khoanh lại đã tạo nên một căn cứ quân sự – một Quân thành – có địa vị quốc đô, hay đúng hơn một Kinh thành kiêm cả chức năng Quân thành. Đó là một thực tế sáng giá ở Cổ Loa thời An Dương Vương.
Thị thành Cổ Loa thời An Dương Vương cũng là mang tính chất đặc trung ở thời kỳ này, mới được nhận diện cho phù hợp với các dẫn liệu ngày càng thấy rõ hơn ở Cổ Loa. Đó là dấu tích của hai khu vực sản xuất thủ công: luyện kim – đúc đồng, không những có quy mô lớn, mà còn chuyên hóa trong việc sản xuất các chế phẩm.
Từ Cổ Loa hình thành con đường vận chuyển, buôn bán đường thủy, trao đổi với các nơi, tập trung từ Đầm Cả – Vườn Thuyền Ao Mắm … Và chợ Cổ Loa thời An Dương Vương cũng đã được thể hiện, đó là chợ Sa, đến ngày nay vẫn phồn thịnh…
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và Kinh đô; đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như dưới nước khi tác chiến.
Với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống của dân thường. Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo và phân hóa giai cấp hơn thời các Vua Hùng.
Là một tòa thành cổ nhất còn để lại nhiều dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gồm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương.
Hàng năm, vào ngày 6 tháng Giêng, cư dân Cổ Loa tổ chức lễ hội trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành và tạo dựng lên khu di tích Cổ Loa.
Từ những đặc điểm trên cho thấy Cổ Loa là một thành cổ ra đời từ thế kỷ thứ III Tr.CN do Thục An Dương Vương khởi dựng. Tích hợp vào thủ đô Hà Nội thời bây giờ, Cổ Loa vừa làm tăng sự lâu đời của đô thị Hà Nội thêm hàng nghìn tuổi, vừa bổ sung cho vị trí và vai trò trung tâm đầu não, phồn thịnh của miền đất thượng kinh này. Những tính chất đặc trung cho một thời vàng son của thành cổ: Kinh thành, Quân thành, Thị thành cổ đại, cùng với những giá trị của một quá trình rất lâu dài đấu tranh bảo vệ – bảo tồn bản sắc – đã làm tôn lên giá trị của Cổ Loa và Thăng Long ngàn năm tuổi./.


Văn miếu quốc tử giám
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, các bậc Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An, người thầy đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Quốc Tử Giám được xây dựng năm 1076 dưới triều vua Lý Nhân Tông, là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước, là trường đại học đầu tiên ở nước ta.
VM-QTG nằm phía Nam thành Thăng Long (nay là Hà Nội), quay mặt về hướng Nam với tổng diện tích 55.027m2 gồm Hồ Văn, vườn Giám và Nội tự. Nội tự được chia làm năm khu vực: Khu thứ nhất từ cổng Văn Miếu tới cổng Đại Trung; khu thứ hai nổi bật với Khuê Văn Các, một công trình kiến trúc độc đáo được xây dựng năm 1805 với kiến trúc gỗ, bốn mặt có cửa sổ tròn và những con tiện tỏa ra tứ phía tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng; khu thứ ba là nơi lưu giữ bia tiến sĩ được dựng từ năm 1484; khu thứ tư thờ Khổng tử và bài vị của 72 vị học trò xuất sắc của Khổng Tử và thờ Chu Văn An, Tư nghiệp Quốc Tử Giám; khu thứ năm là nhà Thái Học, vốn là Quốc Tử Giám xưa, trường đại học quốc gia đầu tiên ở nước ta.
Các công trình kiến trúc của Văn Miếu được dựng bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hài theo phong cách nghệ thuật của các triều đại Lê, Nguyễn và những hàng cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi.
Nhằm tôn vinh truyền thống văn hóa giáo dục của Việt Nam, công trình Thái Học được xây dựng vào năm 2000 trên nền của QTG xưa (Thái Học đường) với diện tích mặt bằng hơn 6000m2


Chùa một cột
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa được xây dựng vào mùa Đông tháng 10 Âm lịch nǎm Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo 1 (1409) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa tay dắt Vua lên toà. Khi tỉnh dậy Vua nói với bề tôi và nhà sư Thiền Tuệ khuyên Vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất, với đỉnh cột là tượng Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen. Lối kiến trúc này cho phép liên tưởng đến cấu tạo của các kinh chàng (Thạch chàng/Cột kinh) - một loại kiến trúc Phật giáo, thường được dựng lên để kiến tạo công đức.
Khi chùa khánh thành, các sư chay đàn, tụng kinh cầu nhà vua sống lâu, vì thế chùa còn có tên chữ là chùa Diên Hựu, có nghĩa là hạnh phúc dài lâu. Hàng năm cứ đến ngày 8/4 Âm lịch, Vua lại đến chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, Vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội. Năm 1106, chùa được Vua Lý Nhân Tông cho trùng tu mở rộng, trở thành một quần thể kiến trúc lớn. Riêng kinh chàng trước sân chùa được thêm vào những nét mới. Kinh chàng được đặt giữa một hồ vuông thả sen gọi là hồ Linh Chiểu, trên đỉnh cột là tòa sen mạ vàng. Giữa tòa sen là ngôi điện sơn màu tía, sườn nóc điện có gắn hình tượng chim thần để trang trí và tỵ tà. Trong điện đặt tượng Phật Quan Âm mạ vàng.
Trải bao năm tháng, Chùa Một Cột được trùng tu, phục dựng nhiều lần qua các thời Trần, Hậu Lê, Nguyễn. Năm 1954, trước khi rút khỏi Hà Nội, quân Pháp đặt thuốc nổ phá Chùa Một Cột, chùa chỉ còn lại cây cột với mấy xà gỗ. Năm 1955, Bộ Văn hóa cho trùng tu Chùa Một Cột và giao cho kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng đảm nhiệm.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: