N.Rescheer (1968), trong giới hạn của khung logic được trình bày trong dịch - N.Rescheer (1968), trong giới hạn của khung logic được trình bày trong Việt làm thế nào để nói

N.Rescheer (1968), trong giới hạn c

N.Rescheer (1968), trong giới hạn của khung logic được trình bày trong cuốn "Topic in philosophical logic", đã đề nghị một hệ thống mở về trạng thái cảm xúc. Những nhận xét của ông về các loại hình trạng thái cảm xúc được mở đầu bằng câu: "Một phần đoán được trình bày bằng một câu tường thuật. cái mà được nhận thức như một tổng thể, sẽ là đúng hoặc sai". Ví dụ: The cat is on the mat. và khi một phần đoán như vậy tham gia vào một kết cấu lớn cùng loại một lần nữa tự nó là một phần đoán, thì kết cấu lớn hơn này được xem như đại diện cho một trạng thái cảm xúc đối với phần đoán gốc như: X believes "The cat ... mat". Cách hiểu như vậy về trạng thái cảm xúc tại ra nhiều vấn đề về mặt lý luận. Bên cạnh các loại hình the athethic modes, the epistemic modes, the deonic modes, ông đề cặp đến các loại trạng thái cảm xúc temporal, boulomatic, evaluative, causal and conditional.
J.R.Searle (1979) là người đã phát triển nội hàm khái niệm trạng thái cảm xúc lên một bước mới. Sự tiếp cận của Searle hướng đến hành vi ngôn ngư. Sự tiếp cận của Searle hướng đến vấn đề hành vi ngôn luận về trạng thái cảm xúc. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ quan tâm twois mối quan hệ giwuxa nguuwoif nói và cái mà anh ta nói. Mối quan hệ này, như đã biết, chứa đựng rất nhiều vấn đề nọi dung trạng thái cảm xúc. Chẳng hạn, assertive được mô tả theo phương diện belief. Nhưng, mức độ của "lòng tin" có thể ở mức zero. Nội dung này liên quan đến the epistemic modes. Hay đại loại directive có sự tương ứng rất lớn với the deonic modes. Có thể nói rằng, cái mà Searle gọi là "khẩng định" và "chi phối" thực sự là trung tâm của bất kỳ sự thảo luận nào về trạng thái cảm xúc. Đối với ba loại còn lại thì commissive không có sự phân biệt rõ ràng với directive vì chúng đều có khung hướng "sẽ thực hiện một cái gì đó". Loại này chỉ khác với loại trên ở chỗ là người nói "cam kết" làm, còn loại dưới là người nghe phải "làm". Do vậy, hai loại này cùng nằm trong phạm vi the deonic modes. Loại expressive tương ứng với phạm trù của evaluative của Rescher. Có rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng evaluative là một phạm trù trạng thái cảm xúc. Chẳng hạn Volf, E.M. (1985) đã nhận xét rằng "có thể xem evaluative như là một trong những dạng của trạng thái cảm xúc, tức là cái được đặt chồng thêm cho một nội dung mô tả trong sự thể hiện bằng ngôn ngữ". Theo Arutinowa (1988), thì "evaluative" được coi là biểu hiện rõ ràng nhất của nghĩa ngữ dụng" [1,62]. Loại declaration tương đối giống loại assertive về phương diện hiệu lực tại lời nói. Nói tóm lại, qua hệ thống phân loại các hành vi tại lwofi nói của Searle, có thể nhận thấy rằng có một sự tương hợp giữa các hành vi tại lwoif nói với các phạm trù trạng thái cảm xúc trong mối tương quan vwois nội dung mệnh đề, một mối tương quan có tính thống nhất và tính phân loại.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
N.Rescheer (1968), trong giới hạn của khung logic được trình bày trong cuốn "Topic in philosophical logic", đã đề nghị một hệ thống mở về trạng thái cảm xúc. Những nhận xét của ông về các loại hình trạng thái cảm xúc được mở đầu bằng câu: "Một phần đoán được trình bày bằng một câu tường thuật. cái mà được nhận thức như một tổng thể, sẽ là đúng hoặc sai". Ví dụ: The cat is on the mat. và khi một phần đoán như vậy tham gia vào một kết cấu lớn cùng loại một lần nữa tự nó là một phần đoán, thì kết cấu lớn hơn này được xem như đại diện cho một trạng thái cảm xúc đối với phần đoán gốc như: X believes "The cat ... mat". Cách hiểu như vậy về trạng thái cảm xúc tại ra nhiều vấn đề về mặt lý luận. Bên cạnh các loại hình the athethic modes, the epistemic modes, the deonic modes, ông đề cặp đến các loại trạng thái cảm xúc temporal, boulomatic, evaluative, causal and conditional.J.R.Searle (1979) là người đã phát triển nội hàm khái niệm trạng thái cảm xúc lên một bước mới. Sự tiếp cận của Searle hướng đến hành vi ngôn ngư. Sự tiếp cận của Searle hướng đến vấn đề hành vi ngôn luận về trạng thái cảm xúc. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ quan tâm twois mối quan hệ giwuxa nguuwoif nói và cái mà anh ta nói. Mối quan hệ này, như đã biết, chứa đựng rất nhiều vấn đề nọi dung trạng thái cảm xúc. Chẳng hạn, assertive được mô tả theo phương diện belief. Nhưng, mức độ của "lòng tin" có thể ở mức zero. Nội dung này liên quan đến the epistemic modes. Hay đại loại directive có sự tương ứng rất lớn với the deonic modes. Có thể nói rằng, cái mà Searle gọi là "khẩng định" và "chi phối" thực sự là trung tâm của bất kỳ sự thảo luận nào về trạng thái cảm xúc. Đối với ba loại còn lại thì commissive không có sự phân biệt rõ ràng với directive vì chúng đều có khung hướng "sẽ thực hiện một cái gì đó". Loại này chỉ khác với loại trên ở chỗ là người nói "cam kết" làm, còn loại dưới là người nghe phải "làm". Do vậy, hai loại này cùng nằm trong phạm vi the deonic modes. Loại expressive tương ứng với phạm trù của evaluative của Rescher. Có rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng evaluative là một phạm trù trạng thái cảm xúc. Chẳng hạn Volf, E.M. (1985) đã nhận xét rằng "có thể xem evaluative như là một trong những dạng của trạng thái cảm xúc, tức là cái được đặt chồng thêm cho một nội dung mô tả trong sự thể hiện bằng ngôn ngữ". Theo Arutinowa (1988), thì "evaluative" được coi là biểu hiện rõ ràng nhất của nghĩa ngữ dụng" [1,62]. Loại declaration tương đối giống loại assertive về phương diện hiệu lực tại lời nói. Nói tóm lại, qua hệ thống phân loại các hành vi tại lwofi nói của Searle, có thể nhận thấy rằng có một sự tương hợp giữa các hành vi tại lwoif nói với các phạm trù trạng thái cảm xúc trong mối tương quan vwois nội dung mệnh đề, một mối tương quan có tính thống nhất và tính phân loại.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
N.Rescheer (1968), trong giới hạn of khung Logic be displayed in cuốn "Chủ đề trong logic triết học", đã đề nghị one hệ thống mở về trạng thái cảm xúc. Những nhận xét ​​of ông về các loại hình trạng thái cảm xúc opened đầu bằng câu: ". Một phần đoán be displayed by a câu tường thuật cái which is received thức like a tổng thể, will be đúng or sai". Ví du: Con mèo là trên tấm thảm. and when one phần đoán such tham gia into a kết cấu lớn cùng loại once again tự it is a phần đoán, thì kết cấu above this is xem like đại diện cho one trạng thái cảm xúc against phần đoán gốc such as: X tin rằng "Con mèo ... mat". Cách hiểu such về trạng thái cảm xúc tại ra nhiều vấn đề về mặt lý luận. Bên cạnh các loại hình phương thức athethic, các chế độ tri thức, các phương thức deonic, ông đề cặp to các loại trạng thái cảm xúc thời gian, boulomatic, Evaluative, nguyên nhân và điều kiện.
JRSearle (1979) is người have phát triển nội hàm khái niệm trạng thái cảm xúc up one step mới. Sự tiếp cận of Searle hướng to hành vi ngôn ngư. Sự tiếp cận of Searle hướng to vấn đề hành vi ngôn luận về trạng thái cảm xúc. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ quan tâm twois mối quan hệ giwuxa nguuwoif nói and cái mà anh ta nói. Mối quan hệ this, such as known, store đựng many vấn đề Nội dung trạng thái cảm xúc. Chẳng hạn, quyết đoán described theo phương diện tín ngưỡng. But, level độ của "lòng tin" có thể out ​​level zero. Nội dung this related các phương thức nhận thức. Hay đại loại chỉ may sự tương ứng much as lớn các chế độ deonic. Có thể nói that, which cái Searle gọi là "Khẳng định" và "chi phối" actually is trung tâm of any sự thảo luận nào về trạng thái cảm xúc. Against ba loại còn lại thì commissive without sự phân biệt rõ ràng with the chỉ vì our will have khung hướng "will perform one gì đó". Loại only other loại trên out chỗ is người nói "cam kết" làm, còn loại under the is người nghe phải "làm". Do vậy, hai loại This is in the same phạm vi các phương thức deonic. Loại biểu cảm corresponding phạm trù of Evaluative of Rescher. Có many nhà nghiên cứu cho that Evaluative is one phạm trù trạng thái cảm xúc. Chẳng hạn Volf, EM (1985) đã nhận xét ​​that "có thể xem Quét as one of those formats of trạng thái cảm xúc, tức là cái be set chồng thêm for an nội phân described in sự thể hiện bằng ngôn ngữ" . Theo Arutinowa (1988), thì "Evaluative" được coi is biểu hiện rõ ràng nhất of nghĩa ngữ dụng "[1,62]. Loại khai relative giống loại quyết đoán về phương diện hiệu lực tại lời nói. Nói tóm lại, qua hệ thống phân loại all hành vi tại lwofi nói of Searle, perhaps nhận thấy that have a sự tương hợp between hành vi tại lwoif nói with phạm trù trạng thái cảm xúc trong mối tương quan vwois nội phân mệnh đề, one mối tương quan have tính thống nhất and tính phân loại.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: