tăng từng bước 1-10 kg VS m-3 d-1. An OLR 5 kg VS m-3 d-1 đã được tìm thấy là tối ưu để tối đa hóa sản xuất khí sinh học từ chất thải sinh học xử lý nước thải và bùn. Tính đến OLR tối ưu, phần methane thay đổi trong khoảng từ 44,4% đến 62,6% trong quá trình mesophilic và 49,6% đến 61,9% trong quá trình ưa nhiệt, phần còn lại là chủ yếu là CO2 (Điều V). Khí dấu vết như amoniac, hydrogen sulphide, và tổng siloxane cũng được phát hiện ở các mức độ tối đa khá thấp là 83 ppm, 10 ppm và 1 ppm, tương ứng (dữ liệu không hiển thị).
4.2.2 khuẩn cổ vi sinh methanogenic tiêu hóa kỵ khí
kết quả giải trình tự ( Điều V) cho thấy sự đa dạng của methanogen rất hạn chế về cả meso- và các quá trình nhiệt. Trong khi đó, một số nghiên cứu trước đây đã báo cáo một sự đa dạng của methanogen hạn chế hơn trong quá trình ưa nhiệt (Hernon et al, 2006;. Liu et al, 2009;.. Pender et al, 2004; Sekiguchi et al, 1998, 2002;. Tang et al., 2004). Tuy nhiên, lý do cho sự đa dạng quan sát thấp methanogens chiếm ưu thế là không thiếu nguồn bệnh, kể từ Ritari et al. (2012) đã phát hiện methanogens bổ sung (tức là
Methanobrevibacter, Methanosphaera
và Methanophaerula) bởi
pyrosequencing của một tập hợp con của các mẫu của nghiên cứu này. Thay vào đó, lý do có khả năng là các loạt các điều kiện ưu khuẩn cổ mạnh mẽ và thích nghi với các điều kiện khác nhau. Nhìn chung, giữa bốn chi phối đơn đặt hàng archaea vi sinh methanogenic trong kỵ khí tiêu hóa (Methanobacteriales, Methanococcales, Methanomicrobiales và
Methanosarcinales), chỉ
Methanobacteriales và
Methanosarcinales (ví dụ như Methanosarcina) rất dồi dào trong cả hai quá trình, trong khi Methanothermobacter và đại diện của Methanomicrobiales (ví dụ như
Methanospirillum) đã được phát hiện trong các quá trình ưa nhiệt và mesophilic, tương ứng. Tại thời điểm viết bài, Methanosarcina là methanogen chỉ nổi tiếng mà có thể sử dụng nhiều loại bề mặt (ví dụ như acetate, H2 - CO2, methanol, mono-, di-, tri- và methylamines, và CO) để tạo ra khí mêtan (Bryant và Boone , 1987). Điều này có thể giải thích sự phong phú của nó trong các nghiên cứu hiện nay, trong đó bao gồm điều kiện biến đổi cao. Trái ngược hoàn toàn với sự phong phú của Methanosarcina, tuy nhiên, Methanosaeta, một methanogen acetotrophic thường được biết đến (hoặc gọi là một 'acetoclastic' hoặc 'acetate-sử dụng' methanogen) đã vắng mặt trong nghiên cứu này. Theo báo cáo của Schmidt và Ahring (1996), Methanosaeta chỉ có thể sử dụng acetate cho sản xuất metan, nhưng sự tăng trưởng của nó được ưa chuộng bởi nồng độ thấp của chất nền này. Vì vậy, một cách giải thích cho sự vắng mặt của nó có thể là hầu hết nồng độ acetate được ghi lại trong các nghiên cứu hiện nay (0.17- 4.44 mM) có lẽ là ở trên ngưỡng nồng độ tăng trưởng của nó (dữ liệu không hiển thị). Ngoài ra, các yếu tố khác như nồng độ propionate và OLR cũng có thể đóng góp vào quy định về sự hiện diện và ưu thế của Methanosaeta và Methanosarcina trong quá trình tiêu hóa yếm khí (McHugh et al, 2004;.. Chelliapan et al, 2011)
đang được dịch, vui lòng đợi..
