TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN CHO ĐẾN NAY Trong tất cả các mục tiêu MDG (Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ), Việt Nam đã có những tiến bộ ấn tượng nhất về MDG 1 về giảm nghèo. Từ tỷ lệ nghèo là 58,1 phần trăm trong năm 1993, Việt Nam giảm nghèo thành công cho một ước tính tỷ lệ 14,5 percent1 trong năm 2008 - giảm 75 phần trăm. Tỷ lệ nghèo đói giảm hơn hai phần ba, từ 24,9 phần trăm trong 1993 xuống còn 6.9 phần trăm trong năm 2008. Đói nghèo đã được giảm bớt trong số tất cả các nhóm dân cư, trong các khu vực đô thị và nông thôn, giữa các vùng địa lý. Tiến bộ trong việc giảm suy dinh dưỡng cũng tăng đáng kể, giảm từ 41 phần trăm lên 11,7 phần trăm trong năm 2011. THÀNH TÍCH BẢO TRÌ Trong khi mức độ đói nghèo chung đã giảm đáng kể, tốc độ giảm là không đồng đều giữa các vùng và các nhóm dân cư. Tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao và nghèo đói kinh niên vẫn tồn tại, đặc biệt là dân tộc thiểu số và các nhóm dễ bị tổn thương nhất như trẻ em, phụ nữ và người di cư không đăng ký, và ở những vùng khó khăn. Nghèo đô thị được bắt đầu nổi lên như là một hình thức mới của nghèo đói. Nguy cơ tái nghèo cao, trong số những thứ khác vì những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bất ổn kinh tế vĩ mô và thiên tai nặng nề hơn như là một kết quả của sự thay đổi khí hậu. Việc giải quyết những thách thức trong công tác giảm nghèo trong những năm tới sẽ yêu cầu thiết kế và phương pháp tiếp cận đa ngành, nơi nghèo được xem như là một hiện tượng đa chiều, không chỉ về tiền tệ. Nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2008, 50 phần trăm của dân tộc thiểu số vẫn còn sống dưới chuẩn nghèo chung, và lên đến 31 phần trăm bị đói. Các nhóm dân tộc thiểu số chiếm hơn một nửa tổng số người nghèo ở Việt Nam và đã có kinh nghiệm một tốc độ thấp hơn nhiều giảm nghèo so với người Kinh. Nghèo đói kinh niên là chiếm ưu thế trong số những người nghèo dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo cao nhất ở Tây Bắc (45,7 phần trăm) và Tây Nguyên (24,1 phần trăm), nơi có một tỷ lệ lớn các dân tộc thiểu số cư trú và trong một số nhóm dân tộc thiểu số như Ba-na, Gia-rai, E-de , Co-ho, Mông và Mường. Sự tiến bộ trong việc giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các không gian khác so với thu nhập, như giáo dục, y tế, nước, vệ sinh và nhà ở, còn bị tụt hậu so với trung bình của quốc gia. Trẻ em nghèo Việt Nam gần đây đã phát triển riêng của mình từng quốc gia và con cụ thể đa chiều phương pháp tiếp cận để poverty2 con. Phương pháp này dựa trên một số lĩnh vực giảm nghèo, bao gồm giáo dục, y tế, dinh dưỡng, nơi ở, nước và vệ sinh môi trường, lao động trẻ em, giải trí, hòa nhập xã hội và bảo vệ. Áp dụng phương pháp mới này để điều tra về mức sống hộ gia đình tập hợp dữ liệu từ năm 2008, cho thấy khoảng một phần ba của tất cả trẻ em dưới 16 tuổi có thể được xác định là nghèo. Con số này chiếm khoảng bảy triệu trẻ em hoặc một tỷ lệ nghèo ở trẻ em khoảng 28,9 phần trăm. Tỷ lệ nghèo cao con đa chiều đã được tìm thấy ở trẻ em sống ở các vùng nông thôn, trong số trẻ em từ các nhóm dân tộc thiểu số và trẻ em sống ở các vùng Tây Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long. Tây Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay có tỷ lệ nghèo trẻ em cao nhất 64,6 phần trăm và 52,8 phần trăm tương ứng. Nghèo đô thị Việc giảm nghèo ở khu vực đô thị từ 25,1 phần trăm năm 1993 xuống còn 3,3 phần trăm trong năm 2008 cho thấy nghèo về thu nhập không còn là một lây lan rộng hiện tượng ở các khu vực đô thị. Tuy nhiên, đô thị hóa nhanh chóng và di cư từ nông thôn đến thành phố lớn trong những năm qua đã được gắn liền với sự xuất hiện của các vấn đề mới, bao gồm cả không phù hợp nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, ô nhiễm môi trường và hạn chế tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản và an sinh xã hội, đặc biệt là trong số người di cư nghèo người lao động và người lao động trong các lĩnh vực phi chính thức. Kết quả là, một tỷ lệ ngày càng tăng của các nhóm dân cư đô thị phải đối mặt với sự thiếu thốn trong nhiều khía cạnh của cuộc sống con người khác so với thu nhập. Do tính chất khác nhau của nó, nghèo đô thị cần được giải quyết với các chiến lược khác nhau.
đang được dịch, vui lòng đợi..