Sự hài lòng của người tiêu dùng - đây sử dụng đồng nghĩa
với sự hài lòng của thương hiệu - tái fl các dự 'của người tiêu dùng' s đáp ứng với đánh giá của sự khác biệt nhận thức giữa trước kỳ vọng (hoặc một số chỉ tiêu khác về hiệu suất) và hiệu suất thực tế của các sản phẩm như cảm nhận sau khi tiêu thụ của nó '( Tse và Wilton, 1988, p. 204). Đây fi de định nghĩa dựa trên discon fi rmation mô hình nêu sự hài lòng đó là một hàm của mức độ mà hiệu suất kỳ vọng là con fi rmed thông qua nhận thức hiệu suất (Oliver, 1993). Các discon fi rmation mô cũng dự đoán ảnh hưởng trực tiếp của sự kỳ vọng và nhận thức hiệu quả vào sự hài lòng (Oliver, 1993) và tạo thành một góc độ nhận thức điển hình về sự hài lòng. Một nhận thức thêm cơ chế xác định sự hài lòng là vốn chủ sở hữu, trong đó tái fl các dự 'công bằng, đúng đắn hay deservingness phán quyết rằng người tiêu dùng làm tham chiếu đến những gì người khác nhận được' (Szymanski và Henard, 2001, p. 18). Trong Ngoài ra, nghiên cứu đã đề xuất tình cảm tiền thân của sự hài lòng (Westbrook và Oliver, 1991; Oliver, 1993). Mặc dù những tiền thân là mạnh nhất được hỗ trợ (Szymanski trong văn học sự hài lòng và Henard, 2001), McAlexander et al (2003) fi nd ảnh hưởng của cộng đồng thương hiệu hội nhập, khái niệm hóa như khách hàng ' mối quan hệ với các thương hiệu, sản phẩm, công ty, và các khách hàng khác, trên cả hai thương hiệu sự hài lòng và lòng trung thành. Kết quả chỉ ra
đang được dịch, vui lòng đợi..