2.1.3.2. Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong truyền thống
làng nghề của tỉnh Bắc Ninh
* Tổng quan về kinh doanh Phân tích môi trường thông qua PEST phân tích:
Trước khi tạo ra các kế hoạch kinh doanh hoặc quyết định, điều quan trọng để 'quét' là
môi trường bên ngoài. Điều này có thể đạt được thông qua một phân tích PEST. Phân tích PEST nhằm mục đích
để xác định và tóm tắt ảnh hưởng trên cách tổ chức, hoạt động công nghiệp. Các
phân tích PEST là một công cụ hữu ích cho sự hiểu biết thị trường tăng trưởng hay suy giảm, và như vậy các
vị trí, tiềm năng và định hướng cho một doanh nghiệp. Một phân tích PEST là một đo lường kinh doanh
công cụ. PEST là một từ viết tắt cho các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ, mà
được sử dụng để đánh giá thị trường đối với một doanh nghiệp hoặc đơn vị tổ chức. Trong các điều khoản khác, nó
liên quan đến việc xác định, kinh tế, văn hóa-xã hội, công nghệ, pháp lý và chính trị
các yếu tố môi trường và điều kiện có ảnh hưởng đến một tổ chức (Anthony, 2008). Điều này
cung cấp một cách để kiểm toán các ảnh hưởng mà đã tác động đến tổ chức, chiến lược
trong quá khứ và làm thế nào họ có thể làm như vậy trong tương lai.
phân tích PEST sử dụng bốn quan điểm, trong đó cung cấp một cấu trúc hợp lý, trong trường hợp này
bởi các định dạng PEST tổ chức đó giúp hiểu biết, trình bày, thảo luận và
ra quyết định.
phân tích PEST có thể được sử dụng để tiếp thị và môi trường kinh doanh đánh giá và
ra quyết định, và các mẫu PEST khuyến khích tư duy chủ động, hơn là dựa
trên các phản ứng theo thói quen hoặc theo bản năng (Lesley et al, 2005) . PEST trở nên hữu ích hơn và
có liên quan lớn hơn và phức tạp hơn việc kinh doanh hoặc đề xuất, nhưng ngay cả đối với một rất nhỏ
36
doanh nghiệp địa phương phân tích PEST vẫn có thể ném lên một hoặc hai vấn đề rất quan trọng mà
nếu không có thể được bỏ qua.
Xuất phát từ những lý luận, nó là rất có ý nghĩa và quan trọng để biết làm thế nào các
môi trường kinh doanh ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay là để hỗ trợ nhỏ và
vừa Doanh nghiệp trong các làng nghề truyền thống theo phương pháp thích hợp. Các
môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các làng nghề truyền thống
của tỉnh Bắc Ninh được xác định, và đánh giá thông qua phân tích PEST như sau:
2.1.3.2.1. Chính trị môi trường và pháp luật
a. Luật môi trường
Luật Doanh nghiệp Nhà nước ban hành, luật đấu thầu, luật trong nước đầu tư, xây dựng
pháp luật ... để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.
các tổ chức kinh tế: Nhà nước đã ban hành một số quy định về thủ tục và
điều kiện kinh doanh có thẩm quyền; các cơ chế đầu tư, tổ chức tài chính được
chỉ định, sử dụng hoá đơn mode, tín dụng thể chế, các khoản vay ngân hàng.
Các mối quan hệ giữa khu vực kinh doanh: Các công đoàn thông qua hệ thống
để hiểu các khu vực thể chế, chính sách ngành, Nhà nước.
b. Chính trị môi trường
Biểu hiện của sự ổn định chính trị và môi trường sản xuất kinh doanh, Bắc Ninh
tỉnh đã đề ra nhiều chương trình và chính sách phù hợp với đặc điểm của
địa phương, tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các làng
phát triển, chẳng hạn như Nghị quyết 02, 04 của UBND tỉnh Bắc Ninh về
phát triển các cụm làng.
Tuy nhiên, một số chính sách không được chỉ định với các nhà đầu tư, sự cởi mở, dân chủ và
minh bạch giữa các nhà đầu tư và các nhà thầu, cơ chế này là không phù hợp với
những thay đổi trong giá cả thị trường.
2.1.3.2.2. Môi trường kinh tế
-xã hội kinh tế tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp - hệ điều hành, các
tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP năm 2008 là 53,7%, 56,5% trong năm 2010 như
ngành công nghiệp tư nhân là 53,4%, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 đạt 16.045 tỷ
đồng , năm 2010 kế hoạch là 21.500 tỷ đồng, trong đó công nghiệp địa phương chiếm 58,3%.
Sau hơn 10 năm phấn đấu và xây dựng, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã trở thành một
sự phát triển toàn diện, tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, trung bình là 13,4 % của
37
GDP trong năm 1997-2005, năm 2008 tăng lên 14, hơn 7% so với 1,5 lần so với quốc gia
trung bình, đứng thứ hai trong các lĩnh vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
nhanh theo hướng tích cực. Chia sẻ trong GDP của các ngành công nghiệp - XD tăng từ 23,8% năm 1997
đến 53,7% trong năm 2008, thu ngân sách nhà nước đạt 2450000000000, tăng 23,7% trung bình hàng năm,
thu ngân sách địa phương, chi tiêu gần cân bằng, thu nhập của người dân đang
tăng lên, mỗi . GDP đầu người $ 978,2
Cơ cấu lao động có một sự thay đổi tích cực trong giai đoạn 1996-2000 trong lĩnh vực lao động là
ngành công nghiệp 8,2% - xây dựng; 2001-2005 là 12,9%.
giai đoạn Quy hoạch kinh tế 2006 - 2010: trong năm 2010 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 15-16% mỗi năm, trong đó công nghiệp - xây dựng tăng 19-20% (chỉ có 20% ngành công nghiệp
tăng trưởng), tăng 17 vụ - 18%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4-5%. Đến năm 2010
tỷ trọng công nghiệp - xây dựng là 55%, dịch vụ 31% Nông nghiệp và lâm nghiệp là
14% GDP. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt $ 1,300, vốn xã hội ở mức khoảng 39-40% của
GDP, thu ngân sách đạt 3200000000000, tăng 25% trên trung bình, tỷ lệ phần trăm của GDP
ngân sách với 15% trong năm 2010.
Trong năm 2010, tổng giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Tăng trưởng GDP trong năm qua
và kế hoạch phát triển kinh tế trong giai đoạn 2006-2010 cho thấy tổng vốn đầu tư
trong nền kinh tế. Các cơ hội Bắc Ninh tăng trưởng kinh tế cho các nhà sản xuất và
đầu tư trong ngành công nghiệp - xây dựng, trong đó chủ yếu là công nghiệp.
Bắc Ninh tạo ra công ăn việc làm với mức trung bình của hơn 2.300 công nhân / năm 39-40% lực lượng lao động qua đào tạo.
2.1.2.3.3 . Khoa học môi trường và công nghệ
trong những năm gần đây phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các làng của tỉnh Bắc Ninh với việc áp dụng
công nghệ mới, thay thế thiết bị cũ bằng thiết bị mới sản phẩm hiện đại dần dần
để đáp ứng nhu cầu thị trường tại trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp sản xuất trong các làng vẫn sử dụng thiết bị
thủ công, công nghệ cổ xưa, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm với các tính chất di truyền,
do đó sản xuất các sản phẩm có năng suất thấp, số lượng sản phẩm cá nhân, kém
chất lượng, chi phí cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của làng nghề.
- Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong làng đã được cải tiến, họ
đã áp dụng công nghệ tiên tiến trong các dây chuyền sản xuất, kỹ thuật và sản xuất,
kinh doanh làng gốm Luy Lâu, Phú Lang áp dụng gốm sứ công nghệ của lò vi sóng
38
đường hầm sưởi ấm, làm nóng đất bằng khí, đã làm giảm ô nhiễm môi trường, sản phẩm
thời gian gia nhiệt từ 72 giờ xuống đến 24-32h cho mỗi lò, sản xuất kết quả cao
chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp ở làng đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Quang, Xuân Lai
Bamboo đầu tư máy móc thiết cho việc xuất khẩu cắt, đánh bóng, công nghệ đun sôi, hơi nước
công nghệ sấy của Đức. Việc sản xuất giấy kinh doanh tại làng Phong Khê đã
đầu tư vào dây chuyền sản xuất tự động hóa từ khâu ngâm, ngâm sản lượng bột giấy để
cắt và đóng gói ...
Việc đổi mới công nghệ diễn ra chậm do việc sử dụng kỹ thuật và thủ
công cấp và bán hàng vẫn chiếm cho một tỷ lệ cao, thiết bị sản xuất chủ yếu là
cũ, một số công ty sản xuất công cụ, động cơ và máy móc nhập khẩu từ Trung Quốc, Tai wan.
Việc đổi mới công nghệ diễn ra chưa đồng bộ, chưa hệ thống
chỉ tập trung vào một số công đoạn và một số quan trọng ngành, mà ảnh hưởng đến
toàn bộ quá trình sản xuất, trong khi các giai đoạn khác sử dụng lao động chủ yếu là thủ công.
Việc đổi mới công nghệ là không chú ý đến các vấn đề về môi trường
và bảo vệ an toàn lao động, ô nhiễm môi trường đang trở thành một vấn đề cấp bách trong
làng công nghiệp.
2.1. 2.3.4. Môi trường văn hóa-xã hội
a. Xã hội của dân số và lao động
Cơ cấu lao động trong năm 2008 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 56.683 nhân viên trong và nhỏ
doanh nghiệp vừa. Ở miền Bắc và an ninh trong năm 2009 là 1.024.300 người. Dân số
gia tăng, một giới hạn về quỹ đầu tư, mặt khác các yêu cầu cao hơn về
cơ sở hạ tầng công nghiệp, đô thị và các sản phẩm khác cho cuộc sống con người.
b. Chất lượng dân số
nguồn nhân lực của tỉnh Bắc Ninh rất phong phú, những người có khả năng lao động (lên đến
50,5%) số lượng trung bình hàng năm của người dân vào các độ tuổi lao động tăng từ 10.000
đến 15.000 người, số lao động được đào tạo 25%, trình độ học vấn cao hơn, 30-40 %
mỗi năm từ học sinh trung học thông qua các trường đại học, cao đẳng và trung học kỹ thuật
trường học, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế địa phương và tạo nguồn lực cho
các doanh nghiệp.
đang được dịch, vui lòng đợi..
