De Duve sinh ngày 02 tháng 10 năm 1917 tại Thames Ditton, Vương quốc Anh, một thị trấn không xa London, nơi gia đình ông đã tìm cách lánh nạn trong Thế Chiến I. Sau một nền giáo dục cổ điển trong một trường dòng Tên ở Antwerp, De Duve vào học trường y tế của Đại học Công giáo Louvain vào năm 1934, không có ý định trở thành một nhà khoa học. Ông ghi một tập của học sinh với Joseph BOUCKAERT, người đứng đầu phòng thí nghiệm sinh lý học, cho làm dấy lên mối quan tâm của ông trong nghiên cứu cơ bản. Một mối quan tâm chính của nghiên cứu BOUCKAERT là cơ chế hoạt động của insulin. De Duve tham gia thí nghiệm, trong đó chuẩn bị khá thô của các hormone được dùng cho động vật hepatectomized, dẫn anh tiếp nhận những ý kiến cho rằng insulin hành động chủ yếu trên gan, và trong nhiều năm ông điều tra với cường hiệu lực của khái niệm này.
De Duve là sinh viên năm cuối ở trường y tế khi Đức xâm lược Bỉ năm 1940. sự tham gia của ông trong cuộc chiến tranh là nhỏ, như ông đã được soạn thảo như một bác sĩ, và ngay sau đó đã có thể trở về Louvain để kết thúc trường y tế. Tuy nhiên, vào thời điểm đó cam de Duve của nghiên cứu là quá mạnh cho anh ta để theo đuổi sự nghiệp trong y học. Sau khi hoàn thành luận án thạc sĩ về hóa học tại Louvain năm 1946, de Duve dành hơn một năm như là một đồng sau tiến sĩ tại Stockholm với Hugo Theorell, một người tiên phong trong việc nghiên cứu các enzyme oxy hóa, người nhận giải Nobel năm 1955. Phòng thí nghiệm Theorell đã cung cấp một nơi lý tưởng cho de Duve để tìm hiểu các công cụ tiên tiến nhất của enzymology, mà là trung tâm cho công việc sau này của ông. Thụy Điển tạm trú của ông đã được theo sau bởi một lần đến phòng thí nghiệm của Carl và Gerty Cori ở St. Louis, thánh địa Mecca của nghiên cứu carbohydrate lúc, nơi ông làm việc cho một vài tháng với Earl Sutherland, người mà ông đã xác định glucagon như chất gây ô nhiễm của các chế phẩm insulin được sử dụng rộng rãi trong những ngày đó. Glucagon thường được gọi là "yếu tố glycogenolytic tăng đường huyết" và de Duve sau đó tự hào giới thiệu đến công việc này như mình "tái khám phá ra glucagon." Tiếp tục làm việc Sutherland về kiểm soát nội tiết tố của glycogenolysis dẫn ông đến khám phá về cAMP, mà ông được nhận giải Nobel năm 1971.
đang được dịch, vui lòng đợi..