Trong những năm gần đây, Việt Nam đã luôn luôn duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi quản lý. Nhiều hoạch định chính sách địa phương đánh giá đây là một chính sách phù hợp với tình hình của nền kinh tế Việt Nam hiện nay khi sự cởi mở của nền kinh tế là rất cao và hệ thống tài chính không được điều chỉnh hoàn toàn. Việc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái sẽ giúp hạn chế những tác động tiêu cực đối với ngành thương mại và phi thương mại. Bên cạnh đó, nó còn giữ được sự ổn định trong cán cân thanh toán quốc tế, tài chính ổn định và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với một số vấn đề như lạm phát tăng cao, thâm hụt thương mại đang phát triển, tỷ lệ nhập khẩu trên GDP là cao hơn nhiều, áp lực từ việc gia tăng các dòng vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, điều này sẽ làm cho tỷ giá hiệu quả thực (REER) biến động quá nhanh và quá nhiều, có thể được ra khỏi kiểm soát, gây mất ổn định trong cán cân cân bằng nội bộ và bên ngoài của nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái thực tế định giá quá cao hoặc bị đánh giá thấp là không tốt cho sự cân bằng tổng thể của nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái thực bị đánh giá thấp sẽ làm cho giá cả của các mặt hàng nhập khẩu tăng và gây ra lạm phát. Tỷ giá hối đoái định giá quá cao sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Vì vậy, việc tính toán độ lệch của tỷ giá hối đoái thực hiệu quả là một vấn đề thực sự quan trọng và cần thiết, đó là rất quan trọng trong chính sách kinh tế của đất nước. Đây cũng là mục đích của bài viết này.
Vấn đề của sự thiên vị trong dự toán của tỷ giá thực hiệu quả sẽ luôn luôn là chủ đề nghiên cứu và tranh luận của nhiều học giả trong suốt thập kỷ qua. Tuy nhiên, đó là ý tưởng của nó dường như là khá ít ỏi. Có thể nói rằng, nếu sự việc được coi là "hộp đen", bài viết này sẽ cố gắng "làm trắng" là một phần của hộp đen bằng cách cung cấp tỷ giá hiệu quả cân bằng thực tế (EREER) và sau đó mang nó để so sánh với tỷ giá thực hiệu quả tại mỗi thời điểm nghiên cứu.
Để tính chỉ số REER, trong bài báo này, chúng tôi sử dụng dữ liệu từ 35 quốc gia có tỷ lệ lớn nhất của thương mại với Việt Nam. Bên cạnh đó, các phương pháp xác định EREER được dựa trên các nghiên cứu trước đây như: Edwards (1988), Elbadawi (1998), Zulfiqar và Adil (2005), Plamen và Elena (2005), Ting (2009), James (2009).
Tuy nhiên, không giống như các nghiên cứu trước đó, nghiên cứu này có những phát hiện mới đó là dấu hiệu cho thấy các yếu tố quan trọng nhất gây ra sai lệch tỷ giá thực hiệu quả, qua đó để làm cho tác động chính sách cụ thể để thu hẹp khoảng cách lỗi thời.
Giấy được tổ chức như sau. Phần 2 trình bày các mô hình thực nghiệm. Phần 3 mô tả các dữ liệu. Phần 4 thảo luận về các kết quả ước lượng. Cuối cùng, Phần 5 kết luận.
đang được dịch, vui lòng đợi..
