ưa thích mối quan hệ song phương với Mỹ khi tại chỗ, tuy nhiên, các trung tâm và nói an ninh
hệ thống và quan hệ thương mại GATT làm trung tâm đã trở thành cố thủ trong chiến lược của Mỹ
suy nghĩ, và hoạch định chính sách của Mỹ chống lại các đề xuất đối với an ninh và kinh tế
đa phương mà bắt đầu xuất hiện trong những ngày suy tàn của Chiến tranh Lạnh. Phần 5.3
, khám phát triển phản ứng của Mỹ để chủ nghĩa khu vực châu Á trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Mỹ dần dần ấm lên với những ý tưởng đó đã dẫn tới sự hình thành của APEC và ARF,
và một lần trên tàu nó tìm cách đóng một vai trò chủ đạo trong các tổ chức này bằng cách thiết lập các
chương trình nghị sự và tìm kiếm cải tiến chế. Tuy nhiên, lãnh đạo của Mỹ đã
được nhiều tập và phản ứng, thay vì duy trì và cam kết. Khi các quan chức Mỹ
tăng trưởng thất vọng với họ không có khả năng để đạt được kết quả đáng kể nào trong APEC và ARF,
họ có xu hướng giảm lãi suất và Mỹ đính hôn trôi. Sự gia tăng của độc quyền mới
cho các khuôn khổ Asia-chỉ chủ nghĩa khu vực đã chuyển hướng sự chú ý của Mỹ để APEC
và đã dẫn đến chiến thuật mới đính hôn.
Phần 5.4, khám chi tiết hơn về chính trị trong nước mà làm phát sinh này
mô hình của lãnh đạo phản ứng. Chiến lược quan trọng trong ngành hành pháp xây dựng
chính sách với triển vọng rộng lớn tương tự và mục tiêu, mặc dù họ thường có sự khác biệt trong chiến thuật và
thể chế ưu tiên. Các quan chức AsianmultilateralismfrustratesAmerican phần lớn
bởi vì nó là quá trình định hướng hơn là thúc đẩy bởi mục tiêu nội dung và kết quả.
Điều này mâu thuẫn với phong cách Mỹ ngoại giao và đặt ra tình huống khó xử cho hoạch định chính sách.
Hơn nữa, sự lựa chọn của một số tùy chọn chính sách táo bạo, chẳng hạn như theo đuổi một
khu vực đầy tham vọng -wide chiến lược FTA, bị hạn chế bởi ngày càng tăng sức đề kháng đối với thương mại
tự do trong Quốc hội. Các nhà chiến lược chính sách còn lại để đưa ra những phản ứng chiến thuật để
các "chủ nghĩa khu vực mới", chứ không phải là xây dựng táo bạo, hướng tới tương lai chiến lược mà
sẽ tái định nghĩa khu vực trong một khuôn khổ xuyên Thái Bình Dương hơn.
5.2 Phương pháp tiếp cận truyền thống để chủ nghĩa khu vực Đông Á
Trong những ngày đầu của thời hậu chiến thời kỳ, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ thiết lập về tổ chức lại
thế giới bằng cách tạo ra một khuôn khổ thể chế đó sẽ thúc đẩy hòa bình và
thịnh vượng và có các mối đe dọa ngày càng tăng của cộng sản. Nhà hoạch định Mỹ tập trung
nỗ lực vào hai vùng trọng điểm - Bắc Đại Tây Dương và châu Á Thái Bình Dương. Ở châu Âu và
Bắc Đại Tây Dương cách tiếp cận của Mỹ đã rõ ràng đa phương. Mỹ
thành lập một quốc phòng an ninh tập thể thuộc NATO, và nó thúc đẩy khu vực
hội nhập kinh tế bằng cách buộc viện trợ tái thiết lớn theo Kế hoạch Marshall
cho thương mại và tự do hóa các khoản thanh toán. Hơn nữa, châu Âu đã ở lõi, cùng với
Mỹ, Canada, Úc và New Zealand, trong khuôn khổ kinh tế đa phương
tạo ra tại Bretton Woods và Geneva, trong đó bao gồm các Bretton Woods
chế độ tiền tệ và chế độ thương mại tự do theo Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại, hoặc GATT.
Ngược lại, ở châu Á của Hoa Kỳ có cấu trúc quan hệ của mình thông qua một tập hợp các
chiến lược an ninh và thương mại song phương. Nhật Bản là trọng tâm của kế chiến lược của Mỹ
trong khu vực, và Mỹ thiết lập về làm lại Nhật Bản như là một bức tường thành ở Thái Bình Dương và các
"hội thảo của châu Á." Hoa Kỳ đàm phán về một thỏa thuận an ninh song phương
đang được dịch, vui lòng đợi..
