3.1. Tự do hóa gần đây của các chế độ chính sách lúa gạo Việt: Loại bỏ các hạn ngạch xuất khẩu gạo và hạn ngạch nhập khẩu phân bón
Giống như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam phải đối mặt với tình trạng khó xử của chính sách tìm kiếm để đạt được an ninh lương thực cho dân số của nó trong khi cũng tăng ings ngoại hối bằng cách khuyến khích thu nhập khá việc xuất khẩu thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp. Gạo là tại các điểm then chốt của tiến thoái lưỡng nan này cho Việt Nam kể từ khi nó được cả lương thực chủ yếu chi phối (chiếm
¾ lượng calo của các hộ gia đình Việt Nam bình thường) và lần thứ hai hoặc thứ ba lớn nhất khu vực có thu nhập ngoại hối của đất nước (chiếm hơn 10% tổng giá trị xuất khẩu và gần 40% tổng giá trị xuất khẩu nông nghiệp năm 1997, Quế và Quế 2000).
đối số an ninh lương thực đã đè nặng trong sự cân bằng các mục tiêu chính sách nêu trên và do đó chính phủ Việt Nam đã giữ kiểm soát chặt chẽ về khối lượng xuất khẩu gạo kể từ khi nó lại bước vào thị trường gạo quốc tế như một nước xuất khẩu trong năm 1989. Tuy nhiên, sự thành công của xuất khẩu gạo Việt Nam đã có một bước tiến tới việc trao đổi nước ngoài kiếm mục tiêu và do đó là của 1 tháng 5 năm 2001 của hạn ngạch xuất khẩu, trong đó đã được các công cụ trực tiếp nhất được sử dụng để điều tiết xuất khẩu gạo, đã được tái chuyển bằng việc ký kết Nghị định số 46/2001 / QĐ-TTg về cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Quyết định này tuyên bố bãi bỏ cả hạn ngạch xuất khẩu gạo và hạn ngạch nhập khẩu phân bón. Ngoài việc thực hành của các nhà xuất khẩu trực tiếp đề cử và các nhà nhập khẩu của các sản phẩm này đã được gỡ bỏ. Do đó tất cả các
tác nhân kinh tế (thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu phi nhà nước) đang nắm giữ một giấy phép doanh nghiệp thực phẩm hoặc hàng hóa nông nghiệp có thể tham gia xuất khẩu gạo.
đang được dịch, vui lòng đợi..
